Kể
từ tháng 10 năm 1989, khi những bước chân đầu tiên của tôi đặt trên
ngưỡng cửa đại học, cũng là những bước chân đánh dấu ngày tôi rời xa nơi
chôn nhau cắt rốn: Họ đạo Lái Thiêu, nơi đã cho tôi những tháng ngày
bình yên, êm ả, cùng với nỗi hạnh phúc ngập tràn của tuổi thơ trăm yêu
ngàn nhớ. Khác hẳn chốn xa xôi, tấp nập, đầy tiếng ồn, đầy bụi khói, đầy
tranh giành, bon chen… giữa một thành phố lớn, nơi tôi hằng ngày phải
hối hả cùng dòng người bất tận để lên giảng đường… Bởi phải trầm mình
giữa chốn phố thị không một cảm tình, không một phút giây yên lặng, càng
làm tôi nhớ quê hương da diết. Họ đạo Lái Thiêu đã trở thành huyết
quảng trong tôi…
Nhưng
cũng thật bẽ bàng. Ngày nay, quê hương tôi đang đô thị hóa quá nhanh.
Nhanh đến chóng mặt. Đã nhiều lần tim tôi phải nhói lên những tình cảm
khó tả, hình như nó chuyển từ trạng thái thảng thốt sững sờ đến da diết
đau, khi chứng kiến mọi loại cơ giới đang “lột xác” quê hương mình. Vì
thế, tôi muốn gởi lòng mình trở về tuổi thơ như một lời cám ơn quê
hương, đồng thời tỏ bày những trĩu nặng trước hiện thực đang diễn ra.
I. LÁI THIÊU – QUÊ NGOẠI SỐNG ĐỘNG TRONG KÝ ỨC ĐỜI TÔI.
Tự
bao giờ người ta đã đặt cho làng quê êm ả và thơ mộng của tuổi thơ tôi
cái tên ấy: Lái Thiêu. Lái Thiêu, nơi tôi sinh ra và lớn lên, hầu như in
sâu vào tâm não tôi, đến nỗi tôi cũng chẳng cần thắc mắc tại sao nó lại
có cái tên ngộ nghĩnh như vậy. Chỉ có những kỷ niệm của thời thơ ấu mới
giúp tôi hiểu được điều đó mà thôi. Đó là cái thời tôi còn là thằng bé
trưa không ngủ, lén mẹ đi dầm nắng bắt con chuồn chuồn, bị mẹ đánh, sợ
hãi nép vào lòng Ngoại. Cái thuở thằng bé lên năm, tối ngủ hay rúc vào
giường của Ngoại, gối đầu lên tay Ngoại, thích được Ngoại kể chuyện đời
xưa. Huyền thoại về vùng đất Lái Thiêu là một trong những câu chuyện đời
xưa mà tôi đã nhớ nhiều nhất…
Vào
thời xa xưa, không rõ vào thời gian nào nữa, có một người lái đò đã
châm lửa thiêu mình để tự tử. Thế là người dân trong vùng đã đặt tên cho
mảnh đất mà mình đang sống là Lái Thiêu…
Lái
Thiêu không có sóng, không có biển, để cho ai khi còn bé cứ chiều theo
mẹ ra bãi cát đón cha từ ngoài khơi đánh cá về. Cũng không có núi cao để
ai ngồi dưới chân núi nhìn lên đỉnh thèm thuồng được một lần lên đó mà
phóng tầm mắt ra khắp nơi cho thỏa thích. Với ký ức tuổi thơ tôi, Lái
Thiêu chỉ có dòng sông nước xanh quanh năm hiền hòa trôi lặng lờ bên
những bụi dừa nước um tùm trĩu quả. Dòng sông ấy đã bao lần “mở nước ôm
tôi vào dạ” trong những trưa hè oi bức; dòng sông ấy cũng đã nhiều lần
cho tôi những “ổ bánh mì kẹp thịt” bằng tàu lá lục bình và những bông
hoa tím ngát của nó… Và bên dòng sông ấy, như vẫn còn đây cái bến đò mà
ngày xưa người lái đò đậu ghe của mình vào đó. Trải qua thời gian, có lẽ
cách xa hàng trăm năm trước, dưới bàn tay con người, cái bến đò ấy
dường như khác xưa nhiều. Người ta cũng không ngần ngại gọi tên nơi mà
bến đò hiện diện là xóm Bến Đò, để phân biệt với các xóm khác tại Họ đạo
Lái Thiêu.
Đẹp
hơn cả vẫn là khi đứng từ bến đò nhìn về tháp chuông của một ngôi nhà
thờ cổ kính, được xây cất trên một đỉnh đồi nhỏ đối diện với dòng sông.
Những buổi hoàng hôn, tiếng chuông nhà thờ lại ngân nga cùng với muôn
tiếng chim về tổ rộn ràng, làm cho dòng sông như trở mình, chuyển sang
một màu tím thẳm đẹp lạ lùng: Nhà thờ Lái Thiêu. Ngôi thờ cổ kính có
tuổi đời 120 năm này, đã được trùng tu nhiều lần, qua bao thời đã là
trung tâm đức tin của bao nhiêu thế hệ người tín hữu. Quê hương đã cho
tôi thành người. Họ đạo Lái Thiêu ôm trọn quê hương, đã nuôi dưỡng đức
tin của tôi, để từ nơi này, tôi hãnh diện khoe mình là Kitô hữu, là
người tiếp bước cha ông xây dựng và phát triển đức tin. Nếu quê hương đã
chứng kiến ngày tôi chào đời để làm người, thì họ đạo và ngôi nhà thờ
cổ kính ấy đã nâng niu tôi trong ngày tôi lãnh bí tích Rửa tội để làm
người tín hữu và làm con Thiên Chúa. Cùng với thời gian, tôi lớn dần.
Cũng chính tại ngôi nhà thờ Lái Thiêu, tôi lần lược lãnh các bí tích
khai tâm còn lại. Rồi cũng từ nơi lưu luyến quý yêu này, tôi đã cất bước
ra đi theo ơn gọi mà Thiên Chúa đã gieo trong tôi, đã mời gọi tôi. Ngày
tôi lãnh bí tích Truyền chức, một lần nữa, ngôi nhà thờ cùng với họ đạo
Lái Thiêu – nơi tôi đã lớn lên từng ngày không chỉ trong thân xác,
nhưng trong niềm tin, trong tình mến và ân sủng của Thiên Chúa, nơi đã
dâng tặng trong tôi cả một bầu trời kỷ niệm – tưng bừng chứng kiến giây
phút tôi bước tới Bàn Thánh Chúa: từ đây tôi trở thành linh mục của
Chúa. Hân hạnh biết chừng nào, tự hào biết chừng nào, cao quý biết chừng
nào, đáng yêu biết chừng nào…, người con của quê hương lại được lãnh
nhận thánh chức linh mục trên chính nơi mình sinh ra và lớn lên…
Phía ngoài mặt tiền nhà thờ Lái Thiêu rất đỗi yên bình cho mọi tâm hồn
tìm về, còn có một mái trường, mà thuở tôi còn mài đũng, nó mang tên
trường Phổ thông Trung học Lái Thiêu. Mái trường một thời vang tiếng
cười của lũ chúng tôi. Nhớ nhất những chiều mưa bay, nhìn qua song, phía
ngoài ô cửa sổ lớp học, những cánh hoa dầu, cứ mỗi cơn gió giật, lại bị
cuốn xoay tít, xoay tít, hết đám này đến đám khác, bay từ phía khuôn
viên nhà thờ sang sân trường, cứ như một trận pháo hoa chỉ có một màu
xanh nhạt nổ tung trên bầu trời... Thời nào cũng vậy, cái tuổi của đám
học trò trung học, là tuổi mơ tuổi mộng. Vui đó, rồi lại chợt buồn. Cái
tuổi ươm mầm mơ ước, nhiều sáng tạo, nhưng cũng lắm tinh nghịch, sống
mãi trong tôi, chiếm mất một phần ký ức của tuổi thơ tôi. Cái tuổi thần
tiên diệu kỳ, đã mấy chục năm vội vã đi qua đời người, vẫn không dễ xóa
nhòa…
Ở
nơi ấy – Lái Thiêu đất trời tươi mát còn có tiếng chích chòe hót đòi tổ
trong những lùm cây măng cụt xanh um tùm mỗi khi bắt đầu mùa trái chín.
Những quả măng cụt vừa chín cứ đỏ hồng, chỉ nhìn là đã thấy ngọt ngào
quyến rũ! Nhìn chúng trỗ sai oằn, tôi lại càng thương ngoại vô cùng. Bao
nhiêu năm trong đời, Ngoại gắn bó với chúng để cho chúng được nên vóc,
nên hình như hôm nay. Chúng là màu xanh của quê hương. Nhờ màu xanh ấy,
mà quê hương càng đẹp và nổi tiếng. Nhưng Ngoại mới chính là người tạo
ra màu xanh! Yêu quê hương, tôi càng yêu Ngoại tôi nhiều lắm. Dù năm
tháng trôi xa, Ngoại tôi nay đã trở thành người thiên cổ. Tôi vẫn nhớ
như in hình bóng Ngoại ngày xưa ấy, dù tóc đã bạc, lưng đã còng, tháng
ngày Ngoại vẫn chăm tay cho màu xanh đẹp mãi. Ôi tôi muốn hái dâng Ngoại
những quả măng cụt chín to và ngọt ngào!...
Lái
Thiêu cũng lại là nơi của nghề gốm sứ phát triển. Sản phẩm của nghề này
có mặt hầu hết mọi nơi trên đất nước này. Ngành gốm sứ không biết tự
bao giờ đã đi và nếp sinh hoạt của mọi người như: một tích nước trà,
chén, dĩa, bình cắm hoa… Ngoài ra còn có những chén hứng mủ cao su tròn
hình bán nguyệt như những chiếc bánh trôi nước cắt đôi mà Ngoại vẫn
thường làm phần thưởng cho tôi mỗi khi quyển vỡ của tôi xuất hiện những
điểm mười tươi tắn…
Lái
Thiêu quê tôi là vậy đó! Tôi yêu quê tôi bằng thứ tình yêu của một đứa
con được nuôi dưỡng từ vị ngọt ngào của phù sa đất Tổ. Xin cho tôi được
hôn lên mảnh đất quê mình bằng một cái hôn thật nồng nàn. Xin cho ước mơ
của tôi được trở thành hiện thực: Sẽ là một đứa con trung hiếu của quê
hương được nối nghiệp cha ông mà gìn giữ những gia sản đã có từ ngàn
xưa.
II. CHỢT NGẬM NGÙI TRƯỚC NHỮNG ĐỔI THAY.
Tôi
đã từng có một ước mơ thế đấy. Tôi biết, ước mơ trung hiếu nối nghiệp
cha ông gìn giữ gia sản quê hương không là ước mơ nhỏ. Bản thân như ánh
đèn đom đóm trong đêm, không dễ phá tan màn đêm. Một mình không thể cáng
đáng nhiệm vụ gìn giữ gia sản của cả quê hương, nếu thiếu ý thức của
mọi con người sống trên Quê Cha Đất Tổ. Dù sao với một ước mơ, tuy mong
manh, vẫn chính là động lực thôi thúc người con của quê hương lao mình
về phía tương lai, xây dựng đời mình bằng những nỗ lực, những trang bị
có thể có được trong giới hạn của bản thân, để nếu không thể làm được gì
cho quê mình, thì ít là góp phần mình như một bằng chứng của lẽ sống,
nếu có ai trong đời muốn tìm sự san sẻ…
Phải
suy nghĩ như thế để tự an ủi mình, để bớt nhói khi nhìn lại những kỷ
niệm của một thời, nay chỉ còn đúng với nghĩa của hai từ “kỷ niệm”…
Một
lần vào thăm trang vietbao.vn, thấy một bài viết đăng ngày 9.7.2005, có
tựa đề “Đi Lái Thiêu coi chừng bị... “thiêu”!” (Ng. Thị Hương Giang -
ĐH KHXH&NV TP.HCM) mà cổ họng nghèn nghẹn, đôi mắt cay xè. Bài báo
viết:
“Vừa
rồi khi chúng tôi rủ nhau xuống Lái Thiêu (Thuận An, Bình Dương) chơi,
cả bọn đều hồ hởi, háo hức. Chúng tôi đi mất ba chuyến xe buýt, lòng
vòng từ sáng đến trưa mới tới nơi. Qua khỏi chiếc cầu, chúng tôi được
một người phụ nữ hướng dẫn rất nhiệt tình: “Các em đến tham quan à, cứ
đi theo chị, trong vườn nhiều trái cây lắm”.
Người
phụ nữ nói trên dẫn chúng tôi vào một ngôi nhà nhỏ, đằng sau nhà là
vườn măng cụt nhưng chỉ toàn quả xanh. Khi nghe chúng tôi hỏi tiền vé
vào cổng, chị niềm nở trả lời: “Ở đây không tính tiền vé, ăn bao nhiêu
tính tiền bấy nhiêu. Các em ngồi đây uống nước, nghỉ mát rồi chút nữa
chị dẫn các em sang vườn dâu cũng gần đây thôi”.
Nghe
lời người phụ nữ này, chúng tôi dừng chân tại đây không một chút nghi
ngờ mà đâu biết rằng giữa chị ta và chủ nhà đã móc nối với nhau... Mãi
khi chờ quá lâu, chúng tôi đề nghị chủ nhà dẫn đến tham quan vườn dâu
thì mới vỡ lẽ ra là mình bị lừa. Chẳng có vườn dâu nào hết và người phụ
nữ ấy cũng mất dạng luôn.
Chủ
nhà tính tiền nước cộng thêm tiền vé nữa là gần 200.000 đồng. Mười mấy
đôi mắt sinh viên ít tiền đều sửng sốt. Đó là chúng tôi mới chỉ vào ngắm
“vườn măng cụt xanh”, mua vài trái dừa làm nước uống, nếu không thì số
tiền chẳng dừng lại ở đấy.
Hôm
qua, sang phòng nhỏ bạn thân chơi, tôi liền kể cho nó nghe về chuyến
tham quan Lái Thiêu của mình để dặn nó lần sau có xuống đó chơi phải cẩn
thận coi chừng bị... “thiêu”. Không ngờ tuần trước phòng nó cũng đi và
bị lừa y chang tụi tôi. Nó nói: “Nhóm tụi tao có bảy người thôi mà còn
trả từng đó tiền, sinh viên mà, đứa nào chẳng xót”.
Vì
lợi nhuận, chính những người con của Lái Thiêu đã biến quê mình thành
nơi “khiếp sợ”. Ô danh biết mấy! Dù sao tác giả Ng. Thị Hương Giang vẫn
còn may mắn được ngắm “vườn măng cụt xanh”. Với sự phát triển ồ ạt của
thời kinh tế thị trường, “vườn măng cụt xanh” đáng yêu ngày nào, giờ chỉ
là… cổ tích. Người ta đã mạnh tay, nhẫn tâm giết sạch màu xanh của quê
hương bằng tất cả những chất độc hại nhất, có thể giết chết con người,
chứ đừng nói là cây trái. Một bằng chứng rất rõ: Trên tất cả các sông
rạch hiện có ở Lái Thiêu, nhiều loại cá, tôm, lươn… đã tiệt chủng.
Cũng
trên trang Việt Báo, đọc tít “Các vườn cây bị ‘triệt sản’" (Tr.B - T.D.
Đăng ngày 4.8.2006), chắc chắn tất cả những ai đã từng gắn bó với Lái
Thiêu sẽ có chung một tình cảm: buồn vời vợi. Bài báo cho biết: “Theo
các chủ vườn tại đây, khi các khu công nghiệp mọc lên như nấm ở Bình
Dương thì đó cũng là "ngày tàn" của trái cây Lái Thiêu. Nguồn nước thải
công nghiệp gần đó đã “triệt sản” các vườn cây ở đây… Theo những nghiên
cứu từ giữa những năm 90 của Sở này (tức sở Khoa học - Công nghệ),
thì nước thải công nghiệp đã thẩm thấu vào các vùng đất Lái Thiêu.
Nguyên nhân thứ hai là hồ Dầu Tiếng đưa nước mặn vào làm chết cây”.
Bởi
không còn sinh lợi, người dân quê tôi đua nhau bán đất. Bán sạch. Bán
không tiết xót! Ngày xưa, khi Ngoại tôi còn sống, bởi lòng tin của con
người lúc ấy đầy ắp, lợi nhuận chỉ từ cây trái chứ không do đất đai, vì
thế những khu vườn của những nhà hàng xóm chỉ cách nhau một con mương,
một bờ dậu bằng những khóm bông bụp, những cây trà rừng uốn mình cong
queo rất đẹp. Còn bây giờ, đừng nói đến những nhà hàng xóm, ngay cả
những người chung một lòng mẹ sinh ra, vẫn có thể giết nhau để dành từng
tấc đất, tìm tư lợi vật chất cho bản thân.
Tôi
ngỡ ngàng xót xa mỗi lần về thăm quê Ngoại. Cả một màu xanh bình yên
hạnh phúc, một thời ôm ắp, chở che tuổi thơ tôi, đã biến mất không còn
vết tích. Nhà nhà san sát như dãy phố nằm giữa thôn quê. Người người lạ
hoắc đến nỗi đi trên quê mình mà cảm giác như lạc vào chốn xa xôi. Các
loại máy móc của cơ giới ngày đêm vỗ ầm ầm đinh tai nhức óc. Chỉ còn
mảnh vườn của Ngoại tôi đơn độc run rẫy giữa bầu trời xanh thăm thẳm
trong vắt. Chỉ có bầu trời muôn đời vẫn thế, vẫn nghiêng mình che chở
mọi người không phân lành dữ, tốt xấu. Chỉ có bầu trời mãi bao dung, vẫn
bình yên như muôn đời bình yên. Khác hẳn trời xanh. Lòng người đổi thay
đến chóng mặt, đến khiếp sợ. Sự đổi thay ấy đã bóp chết một rừng xanh
của quê hương trăm thương ngàn nhớ. Mảnh vườn của Ngoại dẫu còn đó,
nhưng những hàng cây xanh ngày nào giờ chỉ là những cành cây bị tuốt
trọc lá, giơ thẳng lên trời như dấu hiệu của kẻ đầu hàng, chỉ còn biết
cầu xin chút lòng yêu thương của con người. Những cành cây khẳng khiu
đau đớn đang van nài, đang cầu cứu, đang đòi quyền được sống. Những ai
chỉ vì tham lam, nỡ giết chết quá khứ và đập phá cả tương lai có thấu
chăng tiếng ai oán của quê hương ngàn đời âu yếm?
Lái
Thiêu – quê hương thanh bình của tuổi thơ tôi, giờ đây cũng hết thanh
bình. Người ta nói “đất lành chim đậu”. Nhưng “chim” đậu nhiều, “đất”
chẳng còn lành. Nếu ngày xưa, Lái Thiêu nổi tiếng cây trái miệt vườn,
thì ngay hiện tại, cùng với tỉnh Bình Dương, có lẽ Lái Thiêu nổi tiếng
với những căn nhà tạm bợ, gọi là nhà trọ, đón nhận hàng hàng lớp lớp
người lũ lượt từ khắp mọi miền đất nước đổ về để tìm kế sinh nhai. Những
anh chị em xa quê này phải sống bằng đủ mọi loại nghề, thượng vàng hạ
cám, nhiều nhất là làm công nhân trong các nhà máy, các khu công nghiệp.
Bởi đón nhận quá nhiều người, quá nhiều thành phần xã hội, an ninh trên
miền quê này đã trở thành phức tạp. Tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, có
mặt ở mọi ngóc ngách. Ngày xưa, nhà thưa thớt. Nhà cách nhà bằng một
khoảng vườn rộng, rộng đến ngút mắt, mà sao không ai sợ bất cứ điều gì.
Căn nhà của Ngoại nằm giữa vườn cây âm u trầm mặc, không cần đóng cửa,
chỉ có tấm phên che hờ hững cản bớt gió lùa mỗi đêm, vậy mà sao giấc ngủ
cứ ào về không gợn một chút nỗi sợ nào!… Còn bây giờ, nhà nào cũng hết
cửa trong đến cửa ngoài, cửa nào cũng khóa thật chặt, vẫn không khỏi nơm
nớp âu lo. Khi người ta khóa chặt cửa nhà, vô tình, người ta cũng đang
khóa chặt lòng mình. Tình làng nghĩa xóm biến đi đâu! Nhà nhà đóng cửa,
vì thế, người người xa cách. Nhà nhà đóng cửa, người người nhốt mình như
ở nhà giam. Cũng phải thôi. Hàng xóm của mình, gọi là hàng xóm, nhưng
biết ai quen, ai lạ. Tự giam mình là phương cách cuối cùng để bảo vệ sự
an nguy của chính mình…
Tôi
vẫn thường về thăm quê hương. Bình thường, một người con trở về quê
hương, sẽ vui mừng, sẽ thấy lòng mình khoan khoái. Còn tôi, mỗi lần đứng
trên mảnh đất quê mình, sao lại cứ nhớ quê mình da diết. Nhớ đến lạ
lùng. Nhớ đến nao lòng. Nhớ đến quặng thắt một niềm đau khó tả… Tình
yêu quê hương của một thời đã qua như một bầu trời ký ức dằn xé trong
tôi, làm tôi cứ đau đáu khi phải chứng kiến sự lạ lẫm, vô hồn của hôm
nay trên chính nơi chôn nhau cắt rốn.
Tôi
không thể hiểu, sự đổi thay đang diễn ra trên quê mình có thật sự đúng,
hay sự tiếc nuối về cái chất thanh bình, yên ắng của một thuở đã qua
đang ngự trị trong tôi là sai? Chỉ biết rằng, người viễn xứ trở về quê
xưa đã hụt hẩng đến ngỡ ngàng, ngơ ngác và kinh ngạc…
Đúng
sai chưa thể biết được. Chỉ biết một điều, tôi đã yêu quá quê mình. Yêu
như yêu từng sợi tóc, từ thớ thịt, từng giọt máu lưu chuyển khắp châu
thân. Chính vì yêu, tôi đã không kềm được xúc động. Và những xúc động
ấy, dù có theo nhau tuôn ra trên đầu ngọt bút như mọi người thấy trong
bài viết này, thì hãy thông cảm cho tôi. Bởi khi “yêu”, người ta có thể
làm mọi thứ theo cách “yêu” của mình!...
…Thế
là ước mơ của tôi, từ nay sẽ không bao giờ tìm lại được. Rời khỏi quê
hương, mong trở thành người con trung hiếu của quê hương đã ấp ủ hồn
tôi, đã quấn lấy đời tôi. Cứ thế mà tôi lao mình về phía trước để cố
hoàn thành tốt nhất trách nhiệm và ơn gọi đời mình. Những lao tác dọc
đường đời, đã chạm phải nhiều thử thách, có lúc đớn đau rát buốt, có lúc
như chồn chân mỏi gối, người xưa trở lại, muốn tìm đến chiếc võng tre
xưa, nằm đu đưa dưới gốc cây mát rượi, hay khoác những bụm nước ngọt
ngào dưới con mương xanh có bầy cá rô tung tăng bơi lội, để rửa khuôn
mặt nhiễm bụi đời…, mong khuây khỏa tâm hồn, mong được loại bỏ những
căng thẳng, mong chút gió đồng quê lướt nhẹ da người để cảm nhận sự an
lành thanh thản… Nhưng không còn có thể nữa rồi. Tất cả đã lùi vào quá
khứ. Lái Thiêu xưa, nay chỉ còn lại một miền kỷ niệm. Câu chuyện về trái
cây miệt vườn một thời nổi tiếng đã sớm trở thành dòng cổ tích, để ngày
mai khi kể lại cho thế hệ đời sau, người Lái Thiêu sẽ bắt đầu bằng hai
tiếng “Ngày xưa…”, y như Ngoại tôi đã từng kể về huyền thoại Lái Thiêu:
“Ngày xưa có ông Lái đò tự Thiêu…”.
Nghe sao cổ họng đắng đót… Ngậm ngùi… Và tiếc xót…!!
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng