Bầu
Lòng là một làng nhỏ ở về hướng Bắc Sài Gòn lối 80 cây số, trước kia
thuộc Tỉnh THỦ DẦU MỘT (Bình Dương), rồi thuộc Tỉnh Bình Long.(nay Sông
Bé. S.N.)
Từ
Sài Gòn lên Bầu Lòng phải theo Quốc lộ 13, qua Lái Thiêu, Bình Dương,
Bến Cát, Lai Khê, Bến Đồng Sổ, Bầu Bàng rồi Bầu Lòng đến Chơn Thành, Hớn
Quản v.v...
Bắt
đầu từ Bến Cát trở lên ta thấy rất nhiều cao su mà trước kia người Pháp
mộ dân phá rừng để trồng, lấy gốc cao su thay cây rừng thì chúng ta
cũng tưởng tượng rừng Bầu Lòng ngày xưa trông lớn bực nào ?
Từ năm 1898 người Pháp bắt đầu áp đặt chế độ cai trị đến miền rừng thiêng nước độc nầy và cũng gấm ghé phá rừng.
Thuở ấy dân cư còn thưa thớt, mỗi làng không nhiều hơn 30 nóc gia nhưng họ cũng thành lập Ban Hội Tề như những làng khác.
Việc
phá rừng lập nghiệp của người dân quê thật là thiên nan vạn nan. Họ rủ
nhau đi khẩn hoang, họ đem cả gia đình tài sản đến một vùng nào đó. Khởi
sự họ đốn cây cất nhà gần nhau rồi phá rừng, đốt rẫy và khởi sự tỉa lúa
trồng khoai. Sau vài mùa, coi bộ yên nơi yên chỗ, họ mới công cử vài
người lớn tuổi có uy tín về Tỉnh xin lập làng, lập ấp và họ được thỏa
mãn ngay.
Những
gia đình khẩn hoang nầy phần đông đều giống nhau. Họ có ít lắm cũng một
đôi Trâu hay Bò, một cái xe BO và một vài gia súc khác để nuôi gây
giống. Người gia trưởng đen đúa, nhưng bậm trợn, sức vóc mạnh mẽ, một bà
vợ mộc mạc quê mùa nhưng chí thú làm ăn, vài đứa con ngây ngô ốm đói...
Họ sống đơn giản, tận lực khai phá, để sống ấm no, bất chấp cả rừng thiêng nước độc.
Sau
vài ba mùa, đời sống của họ tạm đủ với gạo đỏ, củ khoai, ngoài việc sự
lập làng lập ấp, họ cũng không quên tín ngưỡng riêng, lập một ngôi đình
và một cảnh chùa như bao nhiêu làng khác. Lần lần xuất đinh trong làng
tăng thêm, đôi khi nhiều nguời xứ khác đến xin với Ban Hội Tề để nhập
dịch. Ngoài việc đồng áng, thú vui của người dân là rủ nhau đi săn chồn
đuổi thỏ với bầy chó cỏ, con nào con ấy chỉ bằng bắp chơn, nhưng đánh
hơi rất tài, chạy theo con thịt rất bền và dai như đỉa đói. Trẻ nhỏ thì
cùng nhau rấp rào đánh lưới thỏ hay gài bẫy bắt chim, đuổi cút. Những
đêm trăng họ tề tựu lại sân đình, nhà việc hay nhà Ông Hương Cả, Hương
Chủ để bày với nhau những trò giải trí lành mạnh, không kém phần hào
hứng.
Người
lớn thì đẩy cây, kéo tay, bẻ chơn, giã gạo thi hay thực tế hơn là học
võ để giữ mình. Trẻ nhỏ thì chơi những trò nhộn hơn như : U-U bắt Mọi,
Nhảy Chan-Chán-Chậu, tập Chuồng-Chuồng hay Bịt mù khỏû lon, những trò
giải trí mà người lớn trẻ con đều ưa thích.
Ngày Kỳ Yên, Kỳ Bông hay những rằm lớn còn vui hơn nữa, người người đều nô nức dự lễ với niềm tin tưởng nhiệt thành.
Làng Bầu-Lòng với tương lai đầy hứa hẹn...
Ngày mai sung mãn phì nhiêu.
Suốt một tháng qua, dân làng Bầu Lòng bị một cơn đe dọa trầm trọng. Nguyên do là có cọp về làng quấy nhiễu.
Không
phải là cọp mới về làng lần nầy là lần đầu tiên đâu, nhưng mấy lần
trước, cọp về bắt chó, bò, heo rồi đi mất, hoặc bị dân làng xua đuổi
bằng tên tẩm thuốc, chó săn, mõ tre, thùng thiếc, khiến cho mấy Ông
BA-MƯƠI nhận thấy dân làng tiếp rước không được thân mật, hoặc hoảng sợ
mà bỏ đi.
Lần
nầy, cọp về làng phá nhiều hơn trước. Mỗi đêm mỗi bắt bò, chó, heo hoặc
trâu nghé mang đi, mặc cho mõ tre thùng thiếc khua chát óc, cọp cũng
không bỏ mồi.
Mấy
ông thợ săn rình rập suốt đêm nầy qua đêm khác, để rồi khi gặp không
dám bắn mũi tên nào vì Ông BA MƯƠI to sầm sầm vừa thấy là kinh khủng
rồi. Còn mấy chú chó săn tối đến là chui xuống gầm giường không sủa được
một tiếng cho ra hồn, có chăng thì chỉ rên ư ử...
Lần
lần cọp khủng bố dân làng cả ban ngày chớ không chờ đến ban đêm nữa.
Muốn ra đồng làm lụng, họ chờ mặt trời lên cao hơn một sào rồi hú nhau
ra hiệu để gom lại mà đi chung, mỗi người ngoài dụng cụ của mình cũng
không quên đem theo khí giới hộ thân như lao, mác thông, lưỡi đồng hay
roi trường, còn đàn bà thì cả mõ tre, thùng thiếc.
Lần
nọ, cọp toan bắt trâu ở Gò Đậu cách làng không xa quá 200 thước nhưng
nhờ con trâu phát cổ của ông Hương Sư chống cự kịch liệt thêm mấy con
trâu cái có con đến vây chém tiếp làm cho Chúa Sơn Lâm rống lên vài
tiếng thật to rồi chạy dài không dám bắt trâu nữa.
Từ
đó người ta xem con trâu Pháo của ông Hương Sư như con vật quí, bao
nhiêu trâu bò gom lại một nơi để cho con trâu Pháo cầm bầy.
Khổ
nhứt là toán người đi kéo củi thì không làm ăn gì được. Bò mà nghe hơi
cọp thì mang xe chạy trối chết, bất kể hầm hố chông gai, xe gãy tan
tành, bò chạy mất, còn chủ thì không bưu đầu sứt trán cũng gãy tay.
Suốt
tháng trường không biết làm cách nào tránh nạn cọp hoành hành mấy ông
Hương chức mới bàn nhau xuống Ông Cai Tổng xin lãnh súng về bắn cọp.
YÙ
kiến của Ông Hương Quản vừa đưa ra được mọi người tán thành ngay và
sáng hôm sau Hương Cả và Hương Quản cùng về Tổng, xin thầy Cai cấp súng.
Đường về Tổng cũng toàn là rừng rú không chắc là đi yên lành. Họ bèn
dùng phương pháp đâm tỏi thoa mũi bò, đồng thời mượn con trâu Pháo của
Ông Hương Sư đem theo phòng khi gặp cọp cho nó nghinh chiến và trên xe
còn có ba bốn anh lực điền gan dạ cùng mình đem theo khí giới để hộ vệ
hai ông Hương Chức.
Hai
ngày sau, Ông Hương Cả và Hương Quản lãnh súng về làng. Theo thủ tục
thì không được lãnh mau lẹ như thế đâu nhưng nhờ Ông Cai Tổng thông cảm
nỗi khổ dân của làng mà bảo lãnh giùm, cho nên Chánh Chủ tỉnh mới cấp
cho cây súng " ca-lip đuôi " (nòng 12) với 10 viên đạn, mỗi viên tròn,
nhồi thuốc súng để bắn ra 9 viên đạn khá nhỏ (chevrotines) để đem về bắn
cọp.
Dân
làng nghe nói lãnh được súng, mừng rỡ vô cùng. Từ đó, ông Hương Quản đi
đâu cũng ôm kè kè cây súng một bên, dẫn theo chú Phó Hương Quản và chú
Cai Tuần, mỗi người cầm một cây roi trường bóng láng.
Dân
làng bắt đầu tin tưởng, yên chí làm ăn vì mỗi ngày Ông Hương Quản và
hai người hộ vệ đi từ đầu làng đến cuối làng rồi trở lên để canh chừng
động tịnh. Ban ngày, họ ra đồng làm lụng, tối đến đóng kín cửa nẻo, nằm
yên, nhưng cọp chỉ ngưng hoạt động độ chừng mươi ngày rồi bắt đầu làm dữ
trở lại.
Dường
như có linh tính, hễ Ông Hương Quản xách súng đi đầu làng thì cọp xuất
hiện ở cuối làng để bắt heo, bắt chó. Ban đêm, khi Ông Hương Quản đi
rông (ronde) về, treo súng lên vách thì tiếng cọp " Cà-um " rền trời. Có
một đêm, cọp lại về nhà Ông Hương Quản bắt một con heo, Ông Hương Quản
xách súng lên cò, bước ra sân nhìn thấy Ông "Ba Mươi " thì hốt hoảng,
thối lui, không dám bắn một tiếng lấy oai, dù là bắn chỉ thiên?đành để
cho cọp bắt heo đi mất. Sáng hôm sau, ông tìm Hương Cả, mà báo cáo miệng
:
- Bẩm Cả, đêm rồi cọp về bắt heo tại... nhà tui.
- Sao ? Thằng Hương mầy có bắn nó phát nào không ? Tao không nghe súng nổ.
- Dạ... Dạ...
- Không có bắn sao ? Bậy quá, sao không bắn nó ?
- Dạ, nó lớn quá trời quá đất. Tui sợ bắn nó không trúng, nó không chết thì... tui cũng chết.
Sau
một hồi thảo luận, cả hai đồng ý, cho đánh mõ mời toàn ban hội tề nhóm
lại, rồi sau đó Hương chức đồng ý về tỉnh xin Lính Tập về giết cọp. Hôm
sau, họ cụ bị lên đường, cũng đâm tỏi thoa mũi bò, cũng trâu Pháo, cũng
mác thông và súng... để xin binh tiếp viện.
Lần
nầy Ông Cai Tổng không còn sốt sắng trong công việc xin lính tập nữa.
Sau khi nghe hết những lời thỉnh cầu, ông chỉ cười rồi bảo :
-
Ối, chuyện dễ ợt hè mà Cả lo quá ! Cả và Hương Quản nên về rước thầy
nghề võ đánh cho một lần thì cọp tởn tới già chớ có gì đâu mà phải xin
lính tập cho rộn chuyện. Làm vậy không sợ Tây nó chê dân mình bất tài
sao ?
Biết
không thể lay chuyển ông Cai Tổng được vì ông là người ăn một đọi nói
một lời, hai ông Hương chức Bầu Lòng đành trở về và suy gẫm lời ông Cai
Tổng bèn rước thầy nghề võ về đánh cọp ; vậy là hữu lý.
Sau
khi dọ hỏi mấy ngày Ông Hương Cả cho người đem lễ vật qua Gia Bẹ (thuộc
tỉnh Gia Định) rước thầy nghề võ về Bầu Lòng trừ cọp.
Thật vậy, làng Gia Bẹ có ông thầy nghề võ tục gọi Ông Tám rất có tên tuổi.
Thưở
thiếu thời, ông từng đụng độ với nhiều tay danh sư và luôn luôn ông thủ
thắng. Cọp beo ông cũng từng chiến đấu, phần nhiều chúng chịu được vài
chục roi là cúp đuôi chạy mất hoặc trúng nhằm chỗ nhược, chết tại chiến
trường.
Quanh vùng Ông Tám ở, luôn cả làng Gia Bẹ, trộm cướp đều kiêng oai, không hề dám về phá quấy.
Mặc
dầu tuổi đã ngũ tuần, nhưng ông còn tráng kiện, tay chân gân guốc, đi
đứng gọn gàng, sức ăn còn bằng một thanh niên trai tráng. Mỗi ngày ông
đều tập dượt và học trò của ông học võ, dù dạy lén, cũng đến mươi người.
Khi
đoàn sứ giả Bầu Lòng qua tới, Ông Tám tiếp đón rất nồng hậu và không
đợi phải " Tam Cố Thảo Lư " như Lưu Bị cầu Gia Cát, ông Tám lật đật cắp
roi trường đi liền.
Hai
ngày sau, dân làng Bầu Lòng lại sống trong rạo rực và tin tưởng ở ông
thầy Gia Bẹ. Ông Cả lãnh phần tiếp khách quí. Mọi người đều đến nhìn
ngắm ông thầy võ với cặp mắt tò mò và thán phục.
Ông
Hương Cả và Ban Hội Tề thay nhau chuyện trò với Ông Thầy thật là thân
mật. Ông Cả sai con lo cơm nước, bắt gà làm gỏi, mua rượu ngon.
Buổi
cơm chiều hôm ấy ăn sớm hơn thường lệ và hầu hết Hương chức đều có mặt
tại nhà Ông Cả để dự bữa cơm chiều giống như bữa đám giỗ nho nhỏ. Mọi
người vui vẻ chuyện trò, nhưng cơm rượu vừa được nửa bữa thì có tiếng la
thất thanh đâu đấy. Mọi người buông đũa, nhìn ra sân vừa đúng lúc cọp
nhảy vào sân, nhìn vào nhà, mặt to chần vần, vóc cao như con ngựa, thật
là khủng khiếp !
Mọi
người dường như nín thở, im lặng hoàn toàn, tiếng một con ruồi bay qua
nghe cũng rõ. Cọp cũng im lặng đứng nhìn hồi lâu rồi ngồi xuống chống
tó, quít đuôi, nhìn vào nhà như khiêu khích, như đợi chờ...
Và lúc ấy người ta yên lặng và cũng đợi chờ. Họ chờ gì... ?
Họ
chờ đợi việc mới lạ mà họ vừa quên đi trong chốc lát. Đó là chờ ông
thầy Gia Bẹ trổ tài. Nhưng chờ mãi hồi lâu không thấy gì lạ, họ nhìn lại
thì thấy ông thầy Gia Bẹ ngồi chết trân, mặt xanh như tàu lá, cắt không
còn hột máu... trán rịn mồ hôi.
Họ
hiểu ra và biết rằng ông thầy đã ... sợ cọp rồi. Vậy không lẽ để yên
chờ cho cọp chụp, nên họ tự động cùng nhau la hét, đánh thùng thiếc mõ
tre, những phương tiện tự vệ tiêu cực mà lúc nào cũng có sẵn để đuổi cọp
như bao lần khác.
Cọp
biết mình bị xua đuổi, uể oải đứng lên, vươn vai, rồi chầm chậm bước
khoan thai, từng bước từng bước một, còn cà um mấy tiếng như dọa nạt rồi
biến vào rừng.
Bây giờ mọi người mới hoàn hồn, kể cả ông thầy. Ông thú thiệt :
- Trời đất quỉ thần ơi ! Cọp nầy lớn quá trời quá đất...Tôi mới thấy lần thứ nhứt.
Vừa nói, ông vừa lắc đầu coi bộ buồn xo làm cho mọi người cũng buồn lây. Càng lo sợ, họ càng thương ông thầy võ hơn.
Hôm sau, người ta thấy ông Hương Cả cho người đâm tỏi thoa mũi bò, ông Hương Quản vai đeo súng đứng chờ lịnh.
-
Hương Quản mầy đưa ông thầy về, rồi sẵn trớn mầy xuống luôn dưới thủ,
bẩm lại với ông Cai Tổng coi ổng tính làm sao chớ cứ như vầy hoài... đây
rồi dân làng bỏ hết công ăn chuyện mần thì có phương chết đói cả lũ.
Ông Hương Quản chán nản, cúi đầu vâng lịnh ra đi.
Sau
khi đưa Ông Thầy về Gia Bẹ, Hương Quản bèn đánh xe bò về Tỉnh rồi thẳng
đường về luôn miệt Tân Long Tân Khánh để giáp mặt ông Thầy Cai. Gặp lúc
ông Thầy Cai đang nói chuyện với hương chức Hội Tề tại nha việc Tân
Khánh. Ông Hương Quản Bầu Lòng mang súng bước vào lột khăn cúi đầu chào.
Ông Thầy Cai bèn hỏi :
- Sao ? Vụ Cọp Hùm trên đó ra sao em Hương ?
Hương Quản lật đật kể lại tự sự cho Thầy Cai và Ban Hội Tề Tân Khánh nghe. Nghe xong ông
Thầy Cai phì cười mà rằng :
- Thầy bà gì mà nhát như thỏ đế vậy a... Hương Quản ?
- Dạ ! Bẩm Thầy, Ông cọp lớn quá chừng, ai mà không sợ...
- Lớn thì lớn chớ. Bộ làm thầy nghề võ hễ gặp cọp nhỏ thì đánh còn cọp lớn thì chừa hay sao ?
Đoạn ông kêu thường xuyên lại bảo :
- Mầy chạy đi kêu ông Ất ông Giá lại tao mượn chút coi.
Người chức việc chạy đi ngay, ông Thầy Cai (Cai Tổng) bảo với Hương Quản Bầu Lòng :
- Thằng Hương mầy ở chơi chờ một chút, ông Ất ông Giá lại đây, qua mượn lên Bầu Lòng đánh cọp giùm cho.
Ông Hương Quản vâng lời, đến bộ ván bên hông nhà việc mà ngồi chờ nhưng trong lòng không tin tưởng chi cho lắm.
Một giờ sau, ông Ất ông Giá đến chào ông Cai Tổng và Hương chức rồi đứng chờ lịnh.
-
À, hai đứa bây đến đó hả ? Sao tụi bây ? Có rảnh không ? Có rảnh thì
làm ơn giùm tao lên trên Bầu Lòng với Hương Quản đây, coi con cọp nào đó
về làng phá dữ quá, họ sợ làm ăn gì cũng không được.
- Dạ bẩm Thầy tôi rảnh chớ không có việc gì.
- Dạ thưa tui cũng rảnh.
- Ừa, rảnh thì đi giùm. Nghe nói mấy bữa rày có rước ông thầy nào đó mới thấy cọp thì thiếu điều muốn té... mà đánh đập nỗi gì.
- Dạ. Bẩm Thầy để tôi về lấy roi và dặn bầy trẻ cái đã...
- Dạ. Bẩm Thầy cho tui về thay đồ rồi đi luôn thể.
-
ƯØa, lẹ lẹ đi hai em. Nhớ ở lại trên đó giúp giùm cho xong việc rồi về,
chớ bỏ nửa chừng đa. Có đánh thì đánh cho nó tởn tới già, còn có đánh
chết được thì chở về đây qua thưởng cho.
Nửa
giờ sau, ông Ất và ông Giá theo Hương Quản về Bầu Lòng. Riêng Hương
Quản thì rất ngao ngán và nực cười thầm cho ông Thầy Cai Tổng, chưa chi
mà mong chở xác cọp về...
Viết đến đây tưởng cũng nên phác họa vài nét đơn sơ về ông Ất ông Giá.
Ông
Ất tuổi độ trên ba mươi, người cao lớn, nước da bánh ếch, cổ tay no
tròn như ống tre. Người ta đồn rằng bắp tay ông chỉ có một cái xương mà
thôi, nhưng chỉ là giả thuyết chớ chưa ai dám quả quyết. Lông tay và
lông chơn của ông xồm xàm đen trại. Ông chuyên sử dụng roi trường bằng
cây Mật Cật to bằng cái chén đen mun.
Ông
Giá thì trái lại, trắng trẻo, mảnh khảnh hơn ông Ất độ một bảy một
mười. Tay chơn ông cũng liền lạc, nhặm lẹ, cũng chuyên sử dụng roi
trường. Tài ông Ất ông Giá thì hầu hết mọi người biết võ đều kiêng nể.
Tuy không phải anh em ruột nhưng thương nhau còn hơn ruột thịt và đi đâu
cũng có nhau.
Xe bò đi suốt ngày đêm mới về tới Bầu Lòng.
Ông
Hương Cả lo tiếp đãi như lần trước. Ông sai người lo cơm rượu nhưng cả
hai đều từ chối bảo có gì ăn nấy, không uống rượu để tỉnh táo mà đánh
cọp vì cọp xuất hiện bất ngờ.
Tuy
vui vẻ tiếp đãi, nhưng trong thâm tâm ông Hương Cả và toàn ban hương
chức Hội Tề cũng đồng tâm sự với Hương Quản trên suốt con đường rừng dài
thăm thẳm?
Bữa cơm trưa vừa xong, ông Ất bảo ông Giá :
- Cọp đâu không thấy ; hễ đánh thì đánh phứt đi cho rồi chớ nếu ở đây hoài bỏ hết công chuyện nhà chịu gì nỗi...
Ông
Ất vừa dứt lời thì nghe một tiếng " hự " thật to ở ngoài sân, tiếp theo
những tiếng la thất thanh của lũ trẻ và tiếng chó ăng ẳng.
Dường
như có linh tánh, nên cọp khi biết có thầy nghề võ đến là về làng thử
sức ngay. Mọi người còn đang khiếp sợ tìm chỗ núp rình xem ông cọp khổng
lồ thì ông Giá nhanh nhẹn cắp roi trường, nhảy ra sân thủ thế, còn ông
Ất tay chống roi đứng cạnh cửa mạch, tay kia còn cầm tăm xỉa răng như
người vô sự đứng coi...
Ở
ngoài sân, cọp thấy có người nhảy ra thủ thế, bèn mọp xuống, rồi bất kể
lợi hại nhảy đến chụp đùa. Ông Giá nhẹ nhàng nhảy qua một bên tránh
khỏi, rồi thuận tay ông chỉa một ngọn roi đâm trúng hông cọp khá mạnh.
Cọp rống lên một tiếng như tức giận lắm, nhảy trở lại chụp liền.
Ông Giá loang roi vun vút, lúc đập lúc quơ, cọp nhảy tới nhảy lui miệng luôn gầm thét...
Bụi
bay mù mịt, ở ngoài người ta coi mê mệt, hết sợ phần nào, họ lần ra
khỏi chỗ núp rồi lần ra sân, xem mê mẫn thích thú. Lúc ấy ông Ất cũng
đứng tại cửa mạch mà coi như mọi người, không thèm tiếp tay với ông Giá.
Độ hút tàn điếu thuốc, cọp hộc lên một tiếng, nhảy ra ngoài vòng chiến đấu, nằm ngửa thủ thế đưa bốn chân lên trời.
Theo
mấy thầy nghề võ nói lại thì đó là miếng " trâu vằng " miếng tổ của
cọp. Ai sơ xuất nhảy vào thì chết. Roi đánh vào thì bị cọp bắt roi, tiện
dịp cho cọp đoạt roi, móc họng địch thủ.
Ông Giá thấy cọp thủ thế trâu vằng. Ông cũng không thèm đánh nữa, đứng chống roi nghỉ cho khỏe.
Một
hồi lâu, cọp không thấy ông Giá phá miếng nghề của mình và cọp cũng
nghỉ mệt xong, hộc lên một tiếng rồi nhảy trở vô vòng chiến đấu. Ông Giá
vung roi đánh tiếp.
Một
lần nữa, dân Bầu Lòng được dịp xem say sưa, xem mê man, cát bụi tung
mịt mù không còn phân biệt được người và thú. Lúc sau, cọp lại mệt bèn
dùng miếng cũ, nằm ngửa thủ thế trâu vằng. Ông Giá chống roi đứng chờ
tái chiến.
Theo
lời người xưa kể lại, cọp rất giỏi võ. Mỗi lần giao đấu với ai, người
hoặc thú khác, cọp ta đều chú ý học hỏi những miếng hay, vì thế, nghe có
thầy nghề võ ở đâu là tìm đến đấy để thử sức. Càng thử sức nhiều thì
cọp chiến đấu càng giỏi, biết nhiều miếng võ bí hiểm và lẫn tránh các
đòn rất tài tình.
Hễ
hơn thì hạ địch thủ, liệu thua thì bỏ xứ đi mất, nhưng cũng nhớ rất dai
mối thù thất bại chua cay, có dịp là tái đấu đặng rửa hờn.
Lần này, chờ cũng không thấy ông Giá phá miếng trâu vằng, cọp lại trở mình phóng vào vòng chiến đấu.
Phen
này ông Giá đánh rất kịch liệt, roi loang nghe vo vo, lúc đánh trật,
roi lún xuống đất, bụi cát tung bay, và không bao lâu người ta nghe
tiếng cọp rống thật to và vọt một cái ra ngoài vòng chiến toan chạy về
rừng. Nhưng, người ta nghe cọp rống thêm một tiếng nữa to hơn và dài
hơn, nhìn lại thấy ông Ất đang đứng bên xác cọp, cọp còn vặn mình sắp
chết.
Tất
cả mọi người đều không thấy ông Ất đánh cọp. Nhưng ông Ất đã độ được
đường rút lui của cọp, nên lúc cọp phóng vào rừng, hướng ông Ất đang
đứng, ông bèn chống roi phóng mình ra chận đầu đánh một roi là cọp hết
đường tránh né và chịu chết dưới ngọn roi ngàn cân của ông.
Chờ
cọp chết hẳn, ngưòi ta mới dám mon men lại coi. Ông Ất lấy cỏ tranh
thui ngay bộ râu mép cọp rồi mượn người khiêng chất lên xe bò. Ông Giá
vấn một điếu thuốc hút say sưa... rồi ra giếng xách nước tắm cho sạch
bụi chiến trường. Riêng ông Hương Quản hớn hở ra mặt, lấy thước đo ngang
đo dọc coi con cọp được bao lớn đặng làm " phúc bẩm " (làm tờ báo cáo
lên cấp trên. S.N.).
Ông Ất toan xin tỏi đặng thoa mũi bò thì ông Hương Cả cản lại mà rằng :
- Đâu được em... Mấy em phải ở lại dùng với qua một chén rượu lạt mới phải chớ ...
Ông Ất còn đang lưỡng lự thì ông Giá bước vào, nghe thế bèn bảo :
- Ờ phải đa, tụi mình ở lại ăn ba hột cơm rồi về. Tôi đói quá đi không nổi đâu.
Cả ba người cùng cười xòa đồng thời toàn thể dân chúng vui mừng hoan hô reo hò ầm ĩ. "
Lưu Linh Tử