Trong
không khí của ngày đầu xuân ấm áp. Hôm nay, lúc 9 giờ 30, ngày
27/01/2012, nhằm mồng 5 Tết Âm lịch. Tại đất thánh Họ đạo Búng, thánh lễ
Kính nhớ ông bà tổ tiên và họp mặt đồng hương gốc Họ đạo Búng được tổ
chức trong bầu khí trang nghiêm và thân mật, với sự tham dự của rất đông
bà con đồng hương Họ đạo Búng từ khắp mọi miền đất nước tề tựu trong
thánh lễ tại chốn thiêng liêng này. Chủ tế thánh lễ hôm nay là Cha Micae
Lê Văn Khâm, Linh mục Tổng đại diện giáo phận Phú Cường, cùng đồng tế
với Ngài có các Cha là Cha sở cựu Tôma Phan Minh Chánh,hiện là Cha sở
giáo xứ Lái Thiêu, Cha sở đương nhiệm Micae Nguyễn Văn Minh, các Cha là
Linh mục đồng hương Họ đạo Búng như: Giacôbê Trần Công Báu, hiện đang
hưu dưỡng tại nhà riêng, cha Philipphê Trần Tấn Binh,Cha sở giáo xứ Dầu
Tiếng, Cha Gioan Thiên Chúa Nguyễn Thới Minh, Cha sở giáo xứ Phước Khánh
thuộc GP Xuân Lộc, , Cha Titô Nguyễn Minh Nhường, Cha sở giáo xứ Mỹ
Hảo, Cha Giuse Nguyễn Công Danh, Cha sở giáo xứ Lán Tranh thuộc GP Đà
Lạt, Cha Phaolô Nguyễn Quốc Khánh, Cha sở giáo xứ Tích Thiện, Cha Maccô
Thượng Nguyên Khôi, Cha sở giáo xứ Nha Bích, Cha Titô Trần Nguyên Lãm,
hiện đang du học và Cha Vinhsơn Nguyễn Minh Tuấn, phó xứ Búng.
Trước,
trong và sau buổi lễ, người ta cảm nhận được bầu không khí ấm cúng và
thân thiện, bởi lẽ, đây là dịp duy nhất trong năm, những người con của
Họ Đạo mới có dịp gặp gỡ nhau một cách đầy đủ. Những khoảng cách về địa
vị và hoàn cảnh dường như không còn tồn tại trong bầu không khí này,
thay vào đó, là những tình cảm chân tình của những người anh em sau bao
ngày xa nhau, nay được họp mặt.
Phần
kết thúc với lời nhắn nhủ của cha Titô nguyễn Minh Nhương, trưởng ban
tổ chức: “Năm nay,thấy có nhiều gương mặt lạ và nhìn thì có đông hơn
năm trước, nhưng không biết đã đủ chưa…”!.Hi vọng, mỗi năm vào dịp mồng 5
Tết Âm lịch sẽ trở thành ngày họp mặt truyền thống và được duy trì luôn
mãi để lớp trẻ như con được thêm sự hiểu biết về quê hương, biết kính
nhớ đến các vị tổ tiên đã bỏ bao công sức xây dựng họ đạo để lớp trẻ
tuổi như con có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay. Mong lắm trong
những năm tới đây, này họp mặt truyền thống sẽ đông và đủ, sẽ thấy có
nhiều gương mặt lạ trẻ tuổi.
Một
nén hương thắp lên trước phần mộ tổ tiên để tỏ lòng biết ơn các vị đã
gầy dựng nên Họ Đạo Búng và Làng Hưng Định này, một vùng đất quanh năm
mưa thuận gió hòa, nơi mà đã gieo vào tâm hồn chúng con một đời sống
biết kính Chúa yêu người và cầu nguyện cho các Ngài được lên chốn thiên
đàng, cũng cầu xin các Ngài luôn phù hộ cho lớp hậu sinh chúng con, là
con cháu của các Ngài, luôn có đức tin vững vàng và bình an trong cuộc
sống còn nhiều thử thách này.
ĐÔI DÒNG VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỌ ĐẠO BÚNG – LÀNG HƯNG ĐỊNH
1.LÀNG HƯNG ĐỊNH
Như
chúng ta thấy ngày nay, xã Hưng Định là một vùng nhỏ, chỉ bằng một ấp
của xã Bình Nhâm hay An Thạnh, khi đó là một vùng ẩm thấp mà người quanh
vùng gọi là cái Búng, trong có nhiều đường nước nhỏ gọi là đường long,
vùng rạch
Cây Trâm vô tới vùng Đất Thánh Búng, ngày nay chỉ là một con suối,
nhưng khi trước nó là một đường rạch lớn mà ghe thuyền có thể ra vào
được.
Thời
kỳ đó ở Quãng Ngãi, có ông Nguyễn Thới Bình, sau khi thi đậu Bảng Nhãn,
được cử chức Tri châu, làm quan trong thời loạn lạc, mà lại vì tín hữu
Công giáo, nên sau 12 năm ở quan trường, ông cáo bịnh từ chức, sang qua y
nghiệp, lấy hiệu là Đức Trọng. Mỗi năm ông thường theo ghe Bầu vào Nam
bán thuốc trị bịnh, với mộng di cư lập nghiệp.
Đến
vùng Búng, ông để ý đến cái thung lũng đó, muốn đến lập cư khai khẩn,
nhưng vì cha mẹ còn sống không bỏ đi được, đến khi ngoài 40, cha mẹ
không còn và là người Công giáo, nên ông quyết định xa lánh mặt trời,
vào miền Nam để giữ đạo.
Khi
lên đường di cư vào Nam , ông với vợ và 2 con: Một gái tên là Nguyễn
Thị Hưng đã có chồng là Lê Văn Quyền, và một con trai là Nguyễn Văn Định
chưa vợ.
Mới
đến, ông tá túc tại một nhà người quen ở Lái Thiêu, rồi từ từ 3 cha con
vào Gò Cầy (bây giờ là vùng từ Bình Hòa lên ngã tư Hòa Lân) cắt tranh,
chặt cây làm nhà, nhà cất ở khoảnh đất cao, cạnh (phía tây) đất thánh Búng ngày nay.
Định
cư xong, ông Bình lo sắm trâu để làm ruộng, nuôi vài con ngựa để làm
phương tiện di chuyển, nhứt là để đi làm thuốc ở những nơi xa.
Sau một thời gian, ông ra riêng cho người con gái và con rể ở vùng Cầu Ngang và cưới vợ cho con trai, người họ Võ ở Lái Thiêu.
Tạo
được sự nghiệp, ông Bình thường cho con rể và con trai về quê miền
Trung để quyến rủ bà con thân thuộc cùng vào Nam lập nghiệp, một số
người ở vùng quanh thấy có cuộc qui dân lập ấp cũng đến. Thấy có số đông
người đến ở, ông Bình đi thương lượng với các xã xung quanh để phân
chia ranh giới và xin đăng ký với Triều đình để lập một xã mới.
Xã mới lấy tên là HƯNG ĐỊNH, xã thứ 13 trong tổng Bình Chánh.
Ông
lấy tên 2 đứa con mà đặt cho xã, người thời đó có thói quen hay cữ nói
đến tên người lớn thì lấy làm lạ lắm, ông biết được nên mới giải thích,
Hưng và Định là con của tôi, nay xã này phần lớn do bàn tay tôi tạo
nên, nên nó cũng là con của tôi, con cháu sau này khi nói đến, chúng có
dịp nhớ đến ông bà tổ tiên.
Xã được phân làm 3 ấp:
· Ấp HƯNG PHƯỚC (ở giữa)
· Ấp HƯNG LỘC (ở lò chén Chùm sao)
· Ấp HƯNG THỌ (ở Cầu Ngang)
Xã được khai sanh với:
· Ông Lê Văn Quyền làm Hương Cả
· Ông Nguyễn Văn Định làm Xã Trưởng
Ông Bình có đặt 2 câu liễng đối treo ở Công Sở:
XUÂN CÚC THU ĐÀO HƯNG ĐỊA VINH HUÊ VÔ HẠN LẠC
NGỌC ĐƯỜNG KIM MÃ ĐỊNH GIA NHỰT LỆ HỮU THỜI LAI
(Liễng đối này chỉ tồn tại tới năm 1945)
Cơ
sở hành chánh xã thường được gọi là Nhà Việc, Trụ sở chánh gọi là Nhà
Hội, được xây cất ở ấp Hưng Thọ, đối diện Cầu Ngang. Nhà Việc ấp Hưng
Phước ở tại ngã ba, góc đường nhà thờ quẹo vô lò chén Cây Sao, còn nhà
Việc ấp Hưng Lộc ở gần cuối đường lò chén.(Trích gia phả ông Bình)
2. XỨ BÚNG
v Và khi viết về xứ Búng, cựu cha sở Martin (Nghi) đã ghi lại như sau: “Vùng
đất họ đạo Búng và Bình Sơn ngày nay là vùng đất xưa kia ngập nước,
không trồng trọt được. Nhưng nhờ phù sa sông Sài Gòn mà đất trở nên phì
nhiêu, nên người Việt nhận ra và đến sinh sống ở đây. Những người Công
giáo đầu tiên đến đây từ Huế (đúng hơn, từ Miền Trung NV ). Họ bỏ nơi
đang sống vì luôn có chiến tranh và nhiều khó khăn phải chịu đựng. Xứ
Búng, gần Lái Thiêu, gần như có đủ điều kiện mà họ ao ước.”
Lúc
đó, vùng này là vùng ẩm thấp mà người ta gọi là cái Búng, có nhiều
đường nước nhỏ gọi là đường long (hay còn gọi là “long mạch”). Từ cầu
Cây Trâm, có con rạch lớn, ghe thuyền có thể đi tới vùng đất nghĩa trang
họ đạo Búng ngày nay.
B. Cư Dân Xứ Búng
Những
người đầu tiên đến cư ngụ tại vùng cái Búng được cha sở Martin ghi là
các ông Hương, Tùng, Bời, Dũi, Ở. Tất cả họ là đạo gốc. “Họ tụ tập ở nhà
ông Bời để đọc kinh cầu nguyện. Để sinh sống, họ chăn nuôi bò, trâu và
nuôi tằm. Rồi họ khai khẩn đất đai, trồng trọt, sau một thời gian ngắn,
họ có cuộc sống khá đầy đủ.
v Đặc
biệt có ông Nguyễn Thới Bình , một trong những người đầu tiên có công
khai hoang vùng Búng và lập ra làng Hưng Định từ đó đến nay. Ông nguyễn
Thới Linh (cháu năm đời của ông Bình, là cha của các ông Nguyễn Thới
Khai, Nguyễn Thới Đắc, và linh mục Nguyễn Thới Mậu) có viết về “tên” như
sau: “Với tục lệ người Nam có cái thành kiến là cữ nói đến tên người
lớn. Nên khi ấy dân trong làng không bao giờ dám nói tiếng gì có tên
ông. Khi gặp phải thì nói trại ra là BƯỜNG hay BẰNG mà thôi, như bất bường, công bằng…”
v Vậy
khi cha Martin viết “Họ tụ tập ở nhà ông Bời để đọc kinh cầu nguyện”
thì người kể lại cho cha Martin viêt khảo luận này (10/02/1911) cũng né
tránh tên hoặc truyền khẩu cả trăm năm là như thế, nên người ta chỉ biết
là Bường, Bằng hay Bời (cha Martin ghi), chứ không biết tên đích thực
là BÌNH.
v Cuối
thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1800) một người quê quán ở Quảng Ngãi
(Miền Trung) (có chỗ ghi: Quảng Bình (Bắc Trung Bộ) tên là Nguyễn Thới
Bình. Sau khi thi đậu Bảng nhãn, ông được cử làm Tri châu. Sau 12 năm
quan trường, ông cáo bệnh và xin từ quan. Ông sang làm nghề Đông y với
hiệu là Đức Trọng. Hằng năm, ông thường theo ghe vào phía Nam bán thuốc
trị bệnh, với mong ước di cư lập nghiệp.
v Đến
vùng Búng, ông để ý đến cái Búng nước đó và muốn lập cư khai khẩn,
nhưng vì cha mẹ còn sống, ông không bỏ đi được. Mãi đến khi ông ngoài 40
tuổi, cha mẹ mất, ông mới quyết định rời quê hương cũ, mang theo vợ và 2
con, con gái tên Nguyễn Thị Hưng, với chồng là Lê Văn Quyền, và con
trai là Nguyễn Văn Định, còn độc thân.
v Lúc
đầu, ông tá túc ở nhà người thân ở Lái Thiêu. Dần dần, cha con vào Gò
Cầy (nay là vùng đất từ Bình Hòa, Lái Thiêu đến ngã tư Hòa Lân), chặt
cây cắt tranh làm nhà ở khoảng đất cao, gần nghĩa trang họ đạo Búng ngày
nay. Khi định cư xong, ông Bình lo sắm trâu để làm ruộng, ngựa để di
chuyển. Con gái Nguyễn Thị Hưng và chồng là Lê Văn Quyền ra riêng ở Cầu
Ngang. Còn Nguyễn Văn Định là con trai thì cưới con gái Họ Võ ở Lái
Thiêu. Khi đã tạo nên sự nghiệp vững vàng , ông Bình cho con trai và con
rể về quê miền Trung để vận động bà con thân thuộc vào xứ Búng lập
nghiệp. Cư dân ở vùng lân cận cũng đến Búng để sinh sống. Và từ đó, xã
Hưng Định được hình thành.
v Và
cũng có một gia đình nguyên quán ở Huế vốn dòng quyền quý, đã từng phò
vua giúp nước, đã di cư vào Nam , định cư ở xứ Búng. Đó là gia đình của
ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Thường. Không rõ vì lý do
nào mà cuối đời Gia Long (1802 – 1820) hai ông bà rời quê quán, cùng
các con vào Nam , định cư ở vùng Cầu Ngang. Chính tại nơi ở mới này mà
đứa con út là Phêrô Đoàn Công Quí đã được sinh ra vào năm 1826.
v Có thể tóm tắt như sau: Vùng
đất Búng là vùng thung lũng cô nước, giống đầm lầy, có cây cối rừng
rậm, chưa được khai hoang, dù Búng gần Gò Cầy với nhà thờ Họ Gò đã có từ
lâu (thế kỷ 18), gần Lái Thiêu với số giáo dân là 400 vào năm 1747. Và
cư dân đầu tiên khai khẩn là những người từ miền Trung vào, cộng thêm
những người ở vùng lân cận đến vùng cái Búng làm ăn sinh sống, định cư
lập làng và đồng thời là người công giáo, nên họ cũng qui tụ đọc kinh ở
nhà.(Trích lịch sử họ đạo Búng)