·
Sinh ngày
24/02/1922
·
Tại Thị Nghè, Sài
Gòn.
·
Học Tiểu Chủng
Viện Sài Gòn.
·
Học Đại Chủng
Viện Thánh Giuse, Sài Gòn.
·
Thụ Phong Linh
mục ngày 29/03/1952.
·
Năm: 1952 - 1953
: Phó xứ Thủ Đức
·
Năm :1953 - 1954:
Phó xứ An Đức
·
Năm :1954 - 1972:
Cha sở họ đạo Bình Trưng, Đông Hòa, Giồng Cát.
·
Năm :1972 - 1975:
Cha sở họ đạo Lương Hòa Hạ (Long An).
·
Giám mục phó ngày
10/06/1975. Với khẩu hiệu : “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu,
anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4,13)
·
Giám mục chánh
tòa Mỹ Tho ngày 24/02/1989 đến ngày 15/04/1999.
·
Năm 1999 nghỉ hưu
tại Nhà Chung Mỹ Tho.
·
Qua Đời: Ngày
16/03/2006.
·
An táng
tại: Khuôn viên Nhà Chung, Mỹ Tho (23 Lý Thường Kiệt, Mỹ Tho).
Bài Viết Liên Quan:
I. MỘT MẪU NGƯỜI ĐƠN SƠ, HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN
“Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm tốn trong lòng”. Bài học quan trọng
Đức Kitô đã dạy cho dân chúng khi đi theo Ngài và khắc ghi vào tâm hồn các môn
đệ của Ngài như là nền tảng của những đức tính của người tông đồ, để thành công
trong mục vụ và để thu lượm kết quả việc rao báo Tin Mừng. Đức Cha Anrê đã thấm
nhuần chân lý này và thực hiện trong cả cuộc đời, nên được dân chúng đặt cho
một tên gọi rất thân thương gần gũi : là “ông lão nhà quê”, luôn luôn mang một
áo dòng đen đã bạc màu, đầu đội nón cyclô trắng, đón xe đò đi trên các nẻo
đường 3 tỉnh Tiền Giang, Long An và Đồng Tháp, khi đi làm mục vụ của vị chủ
chăn, từ sau khi giải phóng cho đến thời mở cửa (1986).
Được Đức Cha Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục chánh tòa Mỹ Tho, chọn và đặt làm
Giám mục phó và chính Ngài tấn phong cho Đức Cha Anrê trong hoàn cảnh hết sức
âm thầm, đơn giản, chỉ có vài ba cha tham dự tại Tòa Giám Mục Mỹ Tho ngày
10/06/1975.
Chính Đức Cha Giuse sau đó đã cho các cha Mỹ Tho biết : Lý do Ngài chọn Đức Cha
Anrê vì Ngài đơn sơ hiền lành, ốm còm, như một ông lão nhà quê, đi đâu cũng dễ,
lọt vào ngóc ngách nào cũng vừa, gặp ai cũng được. Đúng như lời nhận xét của
Đức Cha Giuse, Đức Cha Anrê rơi vào môi trường nào cũng được đón tiếp nồng hậu
vì như Chúa Giêsu đã nói “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất nước
này làm gia nghiệp”.
II. GIÁM MỤC THỨ HAI CỦA GIÁO PHẬN MỸ THO
“Viên đá thợ xây đã bị loại bỏ, lại trở nên tảng đá góc tường”.
Ngay sau ngày phong chức Giám mục cho Đức Cha Anrê, Cha Bề Trên dòng Mến Thánh
Giá Tân An, cũng là cha sở giáo xứ Tân An, Antôn Lê Quang Thạnh, đã công bố tại
nhà thờ Thị Xã Tân An vào sáng lễ Chúa Nhật, “Đức Cha Anrê, Viên đá thợ xây đã
bị loại bỏ… được tấn phong làm Giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho. Cha Antôn trước
kia là cha giáo sư tiểu chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê Sài Gòn, biết rất rõ về
Đức Cha Anrê. Khi ngài vô Tiểu Chủng Viện, chỉ được 1, 2 năm, rồi bị bệnh, và
học lực cũng không khá, nên chủng viện khuyên cho về chữa bệnh, vì Ngài có
những đức tính tốt, và kiên trì bền vững theo đuổi ơn gọi, nên cha sở Thị Nghè
lúc đó, xin chủng viện cho Ngài tiếp tục ơn gọi. Ban giám đốc đã chấp thuận cho
Ngài tu lại. Vì quyết tâm và có ơn Chúa Ngài đã qua các lớp Tiểu Chủng Viện và
Đại Chủng Viện và được thụ phong Linh mục ngày 29/03/1952.
III. ĐƯỜNG LỐI MỤC VỤ
1. Chịu Đau Khổ
“Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày để theo Ta”. Đức Cha Anrê
đã sống vất vả, cơ cực suốt cả đời để thực hiện câu châm ngôn Ngài đã chọn :
“Được chia sẻ những đau khổ với Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy
nhiêu” (1Pr 4,13). Trải qua các giáo xứ Ngài coi sóc : Bình Trưng, Đông Hòa,
Giồng Cát (Tiền Giang), Lương Hòa Thượng (Long An), đâu đâu giáo dân cũng kể về
những khó khăn, thiếu thốn mà Ngài đã tự nguyện lãnh nhận, bởi vì có đồng bạc,
tài sản nào Ngài đều cho hết, cả người công giáo cũng như lương dân, sống khắc
khổ, ăn mặc đơn giản, ăn uống đơn sơ, nơi ở nghèo khó giữa những người nghèo
khổ bất hạnh. Tuy là Giám Mục của một giáo phận, nhiều lần Ngài tâm sự : Ngài
“sợ” các cha vì có nhiều vị yêu cầu điều này điều khác, mà Ngài không đáp ứng
được, nên rất buồn và đau khổ. Ngài âu lo và khốn khó khi gặp những chuyện tiêu
cực, rắc rối xảy ra trong giáo phận, bất lực không giải quyết được, chỉ biết
cầu nguyện, cậy trông vào Chúa lãnh đạo giáo phận thay cho Ngài.
2. Tâm Hồn Trẻ Thơ
“Hãy để trẻ thơ đến với Ta, vì nước trời là của chúng”. Đức cha rất thương, mến
và vui chơi với trẻ em, thích nói chuyện và kể chuyện các thánh, dạy giáo lý
cho trẻ, vì Ngài nói trẻ có tâm hồn đơn sơ không phức tạp rắc rối như người
lớn.
Các em cũng rất thích và mến Ngài. Tại Đông Hòa, Giồng Cát, các em thường ôm
hôn Ngài, có khi nhảy lên giường nằm ngủ tỉnh khô. Ngài thường dạy cho trẻ em
cầu nguyện và cùng phủ phục trước Mình Thánh Chúa.
Ngài đặc biệt tôn kính Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và mong muốn cho mọi
người nên thánh theo con đường thơ ấu của Thánh nữ. Ngài luôn có nụ cười trẻ
thơ và tâm hồn ngay lành trong trắng của bé thơ.
3. Chú Trọng Truyền Giáo
Tinh thần truyền giáo chiếm hết cả con tim của Ngài trong suốt thời gian 24 năm
làm Giám Mục. Từ năm 1975 là Giám mục phó và từ 24/02/1989 khi làm Giám mục
Chánh Tòa. Ngài luôn luôn nại vào cớ truyền giáo để giải quyết các vấn đề. Bản
thân tôi được các Đức Giám Mục giáo phận trao cho công tác đặc trách ơn gọi
giáo phận, nhiều lần tôi xin Ngài cho các cha trẻ, có trình độ đi du học để có
nhân sự giúp ích giáo phận trong tương lai, Ngài trả lời vì giáo phận còn nhiều
giáo xứ, giáo họ cần có linh mục coi sóc, lo phần hồn cho giáo dân, nên hãy chờ
đợi khi nào có đông linh mục sẽ tính.
Dồn hết tâm lực vào việc mở lại các điểm truyền giáo và tìm người trở lại, nên
giáo phận có ngân khoản nào là Ngài đầu tư vào việc truyền giáo hết. Khi các
cha mời đi mở giáo điểm truyền giáo, xây dựng một giáo họ mới, mời đi ban phép
Rửa Tội, Thêm Sức, dù xa xôi vất vả, đường đi cách trở, lội nước, băng đồng,
chui qua lạch ruộng, Ngài rất hăng hái, phấn khởi, ở lại lâu ngày, say mê giảng
dạy, có khi giảng quên cả ăn uống, Ngài vẫn lặp lại Lời Chúa “Lúa chín đầy
đồng, thợ gặt lại ít”. Ngài bảo phải vâng lệnh Chúa “Các con phải đi khắp thế
gian loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật”. Ngài thích thú cắt nghĩa về việc làm
cho người ta biết Chúa, và được lợi các linh hồn khi nhắc lại lời Thánh Don
Bosco “Xin hãy cho tôi các linh hồn”.
Một nét rõ nhất trong đời Ngài, và đặc biệt nổi bật giữa hàng Giám mục là phong
chức chui. Cũng vì mê say truyền giáo, tìm cách có nhiều Linh mục để công bố
Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô đến muôn dân, trong những năm khó khăn, Ngài đã
phong chức Linh mục “chui” cho hàng chục anh em trong Giáo Phận. Khi được chính
quyền địa phương mời ra làm việc sau sự kiện, Ngài luôn với áo dòng đen bạc
màu, tay cầm tràng chuỗi, một thân một mình ngồi trước nhiều cán bộ. Hỏi tại
sao cụ phong chức mà không xin phép. Ngài trả lời : “Nhiều lần tôi đã làm đơn
xin phép, nhưng được trả lời : để cứu xét, đợi lâu, giáo dân, nhất là những cụ
già, đến khóc lóc xin có linh mục, tôi cầm lòng chẳng đặng, nên vì thương họ tôi
phong chức âm thầm. Vì nghĩ rằng hồi trước giải phóng khi ở Giồng Cát, Bình
Trưng (Tiền Giang) vùng chiến tranh, tôi luôn giúp người nghèo (có cả anh em
cách mạng) cơm gạo, quần áo, thuốc men những lúc cần kíp, tôi cũng không phải
xin phép. Cán bộ nhà nước cũng vui vẻ huề cả làng, dặn dò lần sau cụ đừng làm
thế nữa.
Về điểm này, Đức Cha Anrê đi đầu trong việc phong chức chui. Ngài đã giúp cho
nhiều nhà dòng có nhân sự Linh mục làm việc trong những lúc thiếu hụt linh mục
trầm trọng.
Ngày 16-20/03/2006 dịp Ngài qua đời. Tôi gặp được nhiều phái đoàn các dòng đến
kính cẩn viếng Ngài và kể lể tâm sự với lòng tri ân sâu xa việc Ngài đã làm cho
dòng mình.
IV. CON NGƯỜI VỚI NHÂN CÁCH ĐÁNG TRÂN TRỌNG
1. Con người của cầu nguyện
Ngài luôn luôn có xâu chuỗi trên tay, tìm Ngài chỉ vô trong nhà nguyện là thấy
ngay. Cầu nguyện là hơi thở, gặp ai Ngài cũng khuyên siêng năng cầu nguyện,
thậm chí khi gặp những người nhà quê hoặc trẻ em, Ngài dẫn ra nhà nguyện để tập
cầu nguyện và cùng cầu nguyện với Ngài.
Ngài sống theo lời Chúa dạy “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21,35) và
dạy mọi người “hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái,
nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38)
Khi các cha đến gặp Ngài trình bày những khó khăn về nhiều phương diện khi phải
coi sóc giáo xứ, Ngài chỉ khuyên cầu nguyện, và Ngài hứa chỉ có thể giúp các
cha bằng lời cầu nguyện và khuyên các cha cầu nguyện liên lỉ, bền lòng, như câu
truyện người đàn bà xin ông quan xét xử, lúc đầu ông không làm, nhưng cuối cùng
cũng làm vì bị quấy rầy. Rất nhiều lần Đức Cha Phaolô đương kim Giám mục của
Giáo phận Mỹ Tho, khi nói về Ngài lúc đã nghĩ hưu. Đức cha luôn xác quyết, nhờ
Đức Cha Anrê cầu nguyện liên lỉ cho giáo phận, cho công việc lãnh đạo giáo phận
của Ngài. Đức Cha Anrê là hỗ trợ tinh thần thiêng liêng của Giáo phận.
2. Sống Khó Nghèo
Áo mặc rất đơn giản, luôn luôn với tấm áo dòng đen, không bao giờ thấy Ngài mặc
đồ “civil”.
Về ăn uống rất giản dị, có một cha đã kể tôi nghe. Khi Ngài đến ban bí tích
Thêm Sức, vì xe trễ, sau bữa ăn rồi, Ngài lấy ra trong bọc nửa đòn bánh tét,
nhờ người ta dọn ra ăn tự nhiên, Ngài nói trên đường đến giáo xứ, thấy đứa bé
tội nghiệp, đã cho nó một nửa. Các cha kể cho nhau khi dịp đón Ngài, rất khỏe,
vì không phải lo việc ăn uống. Đối với Ngài, việc ăn uống không quan trọng, chỉ
là nhu cầu bất đắc dĩ, có lần Ngài nói : “người ta ai cũng phải chết, nên ăn để
chậm chết”. Ngài thường khuyên các cha đừng uống rượu, bia. Có đấng nại lấy cớ
để giao tế dễ dàng, nên dùng chút bia bọt, Ngài nói : “vô đức bất thành lễ, đa
tửu bất thành nhân”.
Việc chỗ ở nghỉ ngơi càng đơn giản, lúc Ngài đã làm giám mục. Ngài thường về
dâng lễ tại Giồng Cát (khi không phải đi làm mục vụ Thêm Sức) và ở đây sống rất
đạm bạc, nằm giường gỗ cứng, không đệm, không tiện nghi, lại rất thích, vì có
trẻ con quê mùa, ăn mặc lôi thôi vây quanh, nhộn nhịp vui vẻ…
3. Đơn Sơ
Như trên đã đề cập, Đức Cha Anrê sống đơn sơ, phó thác mọi sự trong tay Chúa,
có tâm hồn chất phác, thật thà như trẻ thơ.
a. Tin vào Chúa quan phòng và có tâm hồn phó thác
Bất cứ chuyện gì quan trọng, khó khăn, phức tạp tưởng như khó có thể thực hiện,
Ngài luôn khuyên nhủ : hãy phó thác và cậy trộng vào Chúa. Năm 1994 tôi xin
Ngài xúc tiến phục hồi họ đạo Thuộc Nhiêu, có nhà thờ từ hồi năm 1945, trên
thuở đất rộng 8000 m2. Trong thời chiến tranh nhà thờ đổ nát, dân
chúng tản lạc khắp nơi. Sau năm 1975 người ta chiếm đất nhà thờ canh tác. Được
ân nhân giúp đỡ, năm 1994, Ngài và Đức Giám mục phó Gioan Baotixita Phạm Minh
Mẫn, cho tiền đủ để mua lại được 1250 m2 đất. Có đất rồi, xin phục
hồi nhà thờ, gian nan vất vả, khó khăn, suốt 10 năm kiên trì, năm 2004 nhà nước
cho phục hồi họ đạo Thuôc Nhiêu, và ngày 10 tháng 12 năm 2006 Đức Cha Phaolô đã
về làm phép nhà thờ mới. Tạ ơn Thiên Chúa và Tri ân các Đức Cha.
b. Không hình thức
Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, nguyên Giám Mục giáo phận Xuân Lộc,
nguyên chủ tịch HĐGMVN kể cho tôi những mẩu truyện sau đây : Khi các Đức Giám
mục Việt Nam đi Ad Limina lần đầu tiên sau ngày HĐGMVN Bắc Nam thống nhất (năm
1990) Ngài nói rằng: Đức cha Anrê rất đơn sơ, khi sang tận Roma, kinh đô Giáo
hội toàn cầu, mà Ngài vẫn bận đồ rất đơn giản, mặc áo giám mục mà không đeo col
trắng, được đức cha nhắc nhở ngày hôm sau Ngài đeo 2 col cho chắc ăn. Ngài chậm
trễ nên Đức Cha Phaolô Nhật phải nhờ 2 Đức Cha kèm để gọi Ngài đi cho kịp, khi
đi gặp các thánh bộ. Khi đi họp HĐGMVN, Ngài trễ giờ chung, có lần tới giờ cơm,
thấy vắng, có Đức Cha phải lên nhà thờ tìm, Ngài đang lần hạt, cầu nguyện.
Không hình thức, sang hèn, thế nên về cuối đời nhiều lần Ngài đã nói với tôi :
tôi sợ ngỏ lời với Đức Cha Phaolô, xin cha nói dùm : khi tôi chết cho tôi được
chôn cất tại giáo xứ Giồng Cát, nằm giữa con cái thân yêu, quê mùa và nghèo
khó, tôi muốn được chết nghèo, như đã sống nghèo. Tôi thưa với Ngài : con vâng lời
Đức Cha, sẽ trình Đức Cha Phaolô, nhưng con tin chắc, vì địa phận, chắc chắn
Đức Cha và các cha Mỹ tho không bao giờ làm theo ý muốn của Đức Cha được. Tuy
vậy, Ngài vẫn bảo bổn đạo Giồng Cát, làm đơn lên Tòa Giám Mục đề đạt ý nguyện
của Ngài. Tôi cũng được cha Phêrô Phát (cha sở Bến Siêu) cho biết. Ngài thường
trăn trối : khi Ngài chết, hãy để vào chiếu quấn lại, rồi lấy tre nẹp lại rồi
đem vào nơi vắng vẻ và chôn ở đó… hoặc đem ra cồn mà chôn.
c. Đời sống không màng tưởng tới tiền bạc
Ai cho gì Ngài vui vẻ đón nhận, rồi lại quảng đại cho người khác hết. Có cha kể
tôi nghe, khi làm nhà thờ, thiếu hụt, chạy đến xin Ngài cho tiền, chưa giải
quyết ngay, Ngài lật sách Kinh Thánh về đoạn: “Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu của kia,
hoặc sẽ gắn bó với chủ này, mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16,13). Cắt nghĩa cho nghe
đã rồi, dặn dò đủ điều về việc phải biết sử dụng tiền bạc. Cuối cùng cũng vô
ngăn kéo, vét hết tiền bạc, cả bạc cắc cho cha về xây dựng nhà thờ. Có chuyện
khác chính Ngài kể tôi nghe, Ngài bị lừa, một bà kia ăn mặc sang trọng, gặp
Ngài xin xưng tội và xin chúc lành cho bà trước khi đi nước ngoài đoàn tụ với
con cái bằng an, nói chuyện hồi lâu, bà đưa tặng Ngài 5 cây vàng, để giúp địa
phận. Cha con mừng quýnh. Trước khi từ giã Ngài ra về để lên đường, bà xin Ngài
giúp cho 1 triệu đồng để đi về và thuê taxi ra phi trường. Không nghi ngờ gì,
rất tin tưởng, Ngài cho ngay. Sau đó, Ngài đưa vàng cho cha quản lý, cha đem
tiệm thử : là vàng giả. Vì Ngài quá tin tưởng người ta và chẳng quan tâm gì đến
tiền bạc lại sẵn có lòng thương người, nên rất nhiều lần Ngài bị lừa, bị lấy
cắp, bị gạt. Ngay cả với những con cái, người giúp việc, người có đạo cũng như
người ngoại.
d. Cụ Giám mục thật thà, chất phác
Suốt 24 năm Giám mục, rất nhiều lần Đức cha Anrê phải gặp, tiếp xúc, trao đổi
với nhà nước về những vấn đề của Giáo phận, được việc như yêu cầu cũng có, bị
từ chối luôn cũng nhiều, hay lắm khi phải chờ đợi lâu, Đức Cha vẫn vui vẻ, luôn
bảo chúng tôi phải kiên trì cậy trông vào Chúa. Chúa có thể làm đựơc mọi sự
“không có việc gì mà Chúa không làm được”. Do đó, tôi nghe nhiều cấp chính
quyền địa phương, tỉnh, huyện, ban ngành khi nói về Đức Cha Nam . Người ta nói
một câu đầy ấn tượng, “cụ Giám mục của các ông rất thật thà, chất phác…”.
Quả vậy, trong thánh lễ an táng của Ngài 20/03/2006 tại khuôn viên Tòa Giám Mục
Mỹ Tho, có nhiều Giám Mục, đông đảo các linh mục, tu sĩ và rất nhiều giáo dân,
có các cấp chính quyền nhà nước tham dự. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh
Mẫn, Tổng Giám Mục Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, đã nói : “Đối với Đức Cha
Anrê, Ngài luôn làm vừa lòng mọi người – cả đạo lẫn đời”.
Đức Hồng Y kể câu truyện hồi năm 1997 khi nhà nước tỉnh Tiền Giang mời Đức Cha
Anrê và Ngài (Giám mục phó Mỹ Tho) ra trao đổi về việc xin phép lập chương
trình tổ chức Năm Thánh 2000. Với những điểm phức tạp, Đức Cha Anrê nói : Hồi
trước khi tôi ở Giồng Cát và Đông Hòa, bao nhiêu lần tôi giúp đỡ cho anh em bộ
đội, du kích, cũng như dân nghèo xung quanh cơm gạo, tiền bạc, thuốc men, quần
áo, thậm chí có lần tôi đang giảng giáo lý sắp làm lễ, nghe tin binh lính chế
độ cũ đi hành quân vô Gò lũy Giồng cát. Lúc đó tôi đang cho một số anh em bộ
đội du kích trú ẩn trong nhà xứ, tôi vội vàng cho anh em ra ngồi giữa lòng nhà
thờ, và để người công giáo ngồi chung quanh và tôi giảng tiếp. Một người sĩ
quan hỏi thử một người ngồi vòng ngoài đọc kinh kính mừng, thấy đọc thông, biết
toàn là dân công giáo, ông bèn xin lỗi tôi và bỏ đi ra. Những trường hợp như
vậy, tôi đâu có phải xin phép ai. Nghe nói vậy, anh em cười xòa và thông qua
chương trình nhẹ nhàng.
KẾT
LUẬN
“Nhân vô thập toàn”,
Đôi dòng tri ân. Khi tôi đọc bài viết về những “Chân dung linh mục của các địa
phận trong năm thánh linh mục này, đã đăng trên mạng, tôi hỏi các cha Mỹ tho,
mình đã có những vị nào được viết, được biết đến. Đã có cha viết về về cha
Antôn Pezeu, người Pháp, cha sở Cai Lậy (Tiền Giang) về cha Batôlômêô Nguyễn
Văn Thật, cha sở Trà Lư (Đồng Tháp) chưa có vị nào viết về Đức Cha Anrê ; thế
nên được quí cha khuyến khích, tôi mạnh dạn viết về Đức Cha Anrê. Phần vì tôi
được làm việc bên cạnh Ngài khá lâu, và kế tiếp Ngài ở những Giáo xứ nghèo Ngài
đã coi sóc. Tôi viết những cảm nghĩ trên đây xin gởi đến quý vị trong và ngoài
địa phận, như chỉ là một cử chỉ đền ơn một vị Mục Tủ nhân hậu suốt đời tận tụy
cho công việc tông đồ truyền giáo, hết lòng với giáo phận và hiến dâng tất cả
con người của mình cho anh em đồng bào lương cũng như giáo. Tôi ý thức rõ rằng
: nhân vô thập toàn, nói về những điểm tích cực của mỗi người cũng dễ, nhưng
bên cạnh đó cũng còn những điểm tiêu cực mà ai chẳng có. Vậy đang khi chúng ta
trân trọng, quí giá những đức tính, tư cách của Đức Cha Anrê, chúng ta cũng
đừng quên cầu nguyện cho người Cha mến yêu của chúng ta sớm được Chúa thưởng
công nghiệp trong Nước Trời.
Xin Đức Cha cầu nguyện cho chúng con.
Mỹ Tho, tháng 3 năm 2010
Lm Antôn Vũ Sĩ Hoằng