Lò gốm mang
tên Chòm Sao vốn đã có tiếng từ đầu thế kỉ 20 qua truyện ngắn của nhà văn Bình
Nguyên Lộc. Trên con đường đi tìm lò gốm nổi tiếng này, chúng tôi đã đến xã
Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.Tại đây, chúng tôi đã được cán bộ xã
đưa đến các địa danh từng một thời nổi tiếng như chợ Búng, Rạch Bùng, sông
Búng, phố Tàu, lò gốm cổ mang tên ông Hai Ca, gò ông Ba Sành…
Hưng Định
nằm ở khoảng giữa của hai vùng gốm cổ lớn ở thế kỉ 19 - thế kỉ 20 là Lái Thiêu
và Thủ Dầu Một. Sông Búng chảy qua địa phận xã là một nhánh của sông Sài Gòn
cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt từng là mạng lưới thông thương quan
trọng. Thế kỉ 18 mới có các cư dân đến đây lập nghiệp và đến đầu thế kỉ 19 Hưng
Định được triều đình nhà Nguyễn cho phép thành lập làng. Hưng Định ngày nay có
3 ấp là Hưng Phước, Hưng Thọ và Hưng Lộc. Các lò gốm tập trung nhiều nhất ở ấp
Hưng Lộc. Khu lò gốm Chòm Sao (địa phương gọi là lò chén Chòm Sao) thuộc ấp
Hưng Lộc, nơi trước đây có cây sao cổ thụ phải 3 người ôm mới hết. Lò Chòm Sao
thủa ban đầu do các thợ gốm Triều Châu (Quảng Đông) dựng lên. Họ chuyên sản
xuất các loại bát, đĩa men trắng vẽ lam hình rồng, phượng, hoa cúc, con gà…sau
đó là người Hẹ và một số nhóm khác cũng tới vùng này lập lò gốm. Hiện ở Hưng
Lộc có các họ người Hoa là: họ Dương, họ Vương, Lí, Trần, Kha, Tiêu, La…Họ ở
tập trung trong 4 xóm. Tại đây có 4 miếu trấn 4 hứơng, hướng đông là của họ
Vương, hiện là họ có cơ sở sản xuất lớn và lâu đời ở đây. Thợ gốm Hưng Định
không còn chuyên làm một số loại sản phẩm như trước đây nữa. Ngoài bát, đĩa,
người ta còn sản xuất cả khạp (vại), chậu hoa, lư hương, tượng động vật như
chó, gà ,ếch, sư tử , hổ, voi, kì lân…
Kề sát với
Hưng Định là Thạnh Hoà, trước ngày giải phóng, có một số cơ sở làm gốm từ Sài
Gòn về đây lập lò gốm đã thuê khá nhiều thợ gốm Hưng Định về làm.
Cao lin làm
gốm của các lò ở Hưng Định cũng là từ vùng Đất Cuốc (huyện Tân Uyên), và caolin
Đà Lạt. Người ta cũng đã có lúc lấy cả caolin Chí Linh (Hải Dương), nhưng theo
các thợ gốm ở đây, caolin Chí Linh mặc dù rất tốt, nhưng không thích hợp với
việc sản xuất đồ gốm kích thước lớn. Caolin Đất Cuốc màu trắng hơi ngả vàng,
xốp, hạt cát trắng, mịn dùng làm xương gốm. Đất làm gốm được đưa vào bể lọc,
khuấy đục, được dẫn vào bể lọc thứ hai. Tại đây cát nặng hơn, chìm xuống, tinh
caolin nổi lên, được đưa vào bể lắng để loại bỏ tạp chất hữu cơ khác ,sau đó
lại thay nước nhiều lần, đến khi xả nước ra thấy trong là được. Sau khi dã lọc
xong, caolin được phơi khô để làm cốt.
Đất làm bao
nung lấy ở Gò Đình (thuộc thị trấn An Thạnh, huyện Thuận An). Đất ở đây màu
vàng lẫn đỏ, không cần lọc. Thành phần của đất lẫn sỏi son, cát. Muốn lấy đất,
phaỉ đào giếng, đường kính khoảng 1,2m. Đất lấy ở độ sâu 6 m Lò gốm xây
bằng gạch, Đất làm gạch và xây lò lấy từ ấp Bình Thuận (Xã Thuận Giao). Đất ở
đây mầu vàng, dẻo, thành phần gồm cát vàng, có một ít tỉ lệ caolin.
Cát làm men
phải là loại cát mịn, tơi, nhẹ, trắng trong. Trước đây người ta dùng men tro
trấu. Hiện nay dùng men đá .
Phương pháp
tạo dáng đồ gốm chủ yếu là đổ khuôn. Đồ gốm có men thì dùng bao nung. Bao nung
đáy bằng dùng nung các loại bình đựng hoa, lư hương. Bao nung của vùng Tân
Phước Khánh đáy lồi, còn bao nung ở đây, đáy lõm. Bao nung đĩa có đường kính
25cm, cao 7cm, sâu 5cm, dày 1cm. Bao nung bát, đường kính 17 cm, cao 5,5cm,
sâu3,5cm, dầy 1cm. Trước đây, các loại gốm như lu, khạp được coi là của người
Phúc Kiến và ở đây là lò của người Triền Châu, chỉ sản xuất bát, đĩa, bình hoa,
thì ngày nay người ta làm cả lu, khạp (hũ lớn).
Khạp có các
cỡ như sau:
Khạp nhất
dung tích chứa khoảng 24lít, khạp nhì 60 lít, khạp ba 40 lít, khạp tư 20 lít.
Cách gọi này có lẽ do thói quen, bởi khạp mười lại là loại có đường kính miệng là
10cm. Khạp nhì có đường kính miệng 35cm. Các loại nhỏ hơn nữa thì gọi là hũ.
Cách tạo đồ
gốm đều theo lối đổ khuôn rồi sửa trên bàn xoay.
Lò nung
gốm
ở Hưng Định có hai loại: lò bao (còn gọi là lò căn) và lò ống. Nhưng ở đây
người ta chủ yếu sử dụng lò ống .
Lò ống : Gồm có 3 phần : Căn
bầu, thân lò và ống khói. Căn bầu được đào sâu xuống lòng đất 2m. Lò xây bằng
gạch chịu lửa, kích thước 27cm ´ 17cm´ 5,5cm. Nền lò hình thang, lát gạch chịu
lửa, có nhiều bậc cấp, mỗi bậc cách nhau 15cm, được làm dốc dần lên phía cuối
lò. Lò dài nhất tới70m. Các lò trung bình dài khoảng 30m. Mỗi bên thân lò có từ
3-5 cửa ra vào lò, tuỳ vào độ dài của lò. Lò ống chỉ có một ống khói duy nhất ở
cuối lò, mỗi bên sườn lò có các lỗ chụm củi (tiếp củi). Vòm lò, dày 0,20m, được
cuốn bằng gạch lưỡi búa. Vòm làm cao dần từ 2m đến hơn 3m. Lò ống không có các
vách ngăn ở thân lò.
Lò bao : là một dạng của lò
rồng, cũng có 3 phần như lò ống. Nền lò dốc dần lên. Lò có nhiều ngăn. Mỗi ngăn
có các cửa dẫn lửa thông với nhau ở chân các tường ngăn. Mỗi ngăn có một cửa ra
vào lò, hai ngăn chung một lỗ chụm củi (tiếp củi) và một trụ đỡ. Chiều cao và
chiều rộng của mỗi ngăn tăng dần theo chiều dài của lò. Lò bao có thể làm dài
đến 100m. Lò bao có thể có tới vài chục lỗ thoát khói.
Nhiên liệu dùng nung
gốm là các loại cành củi rừng như cây sếu, cò ke ,quí hương… Còn hiện nay
người ta dùng cành cây cao su là chủ yếu.
Làng Hưng
Định chính là lò gốm Chòm Sao trước đây của người Hoa từ Triều Châu sang lập
nghiệp, trong đó có lò gốm của ông chủ lò mang tên Dương Pho.
Hưng Định
trong lịch sử đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của vùng gốm Lái
Thiêu và Thủ Dầu Một.
Nghề làm gốm
ở đây góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu lịch sử phát triển gốm cổ của vùng
Sài Gòn- Gia Định xưa./.
Trần Anh
Dũng