ÔNG BÌNH
LÀNG HƯNG ĐỊNH
HỌ ĐẠO BÚNG
HƠN 200 NĂM VỀ TRƯỚC
(trước năm 1800)
Ở Miền Nam
có:
o
Trấn BIÊN HÒA
o
Phủ PHƯỚC LONG
o
Huyện BÌNH AN
o
Tổng BÌNH CHÁNH
Tổng BÌNH
CHÁNH có 12 làng:
AN-THẠNH,BÌNH-ĐÁN,BÌNH-ĐỨC,BÌNH-GIAO,
BÌNH-NHÂM, BÌNH-SƠN,BÌNH-THUẬN, HÒA-THẠNH, PHÚ-HỘI,PHÚ-LONG, TÂN-THỚI,
VỈNH-BÌNH.
Chưa
có:
LÀNG HƯNG ĐỊNH
Như chúng ta
thấy ngày nay, xã Hưng Định là một vùng nhỏ, chỉ bằng một ấp của xã Bình Nhâm
hay An Thạnh, khi đó là một vùng ẩm thấp mà người quanh vùng gọi là cái Búng,
trong có nhiều đường nước nhỏ gọi là đường long, vùng rạch Cây Trâm vô tới vùng
Đất Thánh Búng, ngày nay chỉ là một con suối, nhưng khi trước nó là một đường
rạch lớn mà ghe thuyền có thể ra vào được.
Thời kỳ đó ở
Quãng Ngãi, có ông Nguyễn Thới Bình, sau khi thi đậu Bảng Nhãn, được cử chức
Tri châu, làm quan trong thời loạn lạc, mà lại vì tín hữu Công giáo, nên sau 12
năm ở quan trường, ông cáo bịnh từ chức, sang qua y nghiệp, lấy hiệu là Đức
Trọng. Mỗi năm ông thường theo ghe Bầu vào Nam bán thuốc trị bịnh, với mộng di
cư lập nghiệp.
Đến vùng
Búng, ông để ý đến cái thung lũng đó, muốn đến lập cư khai khẩn, nhưng vì cha
mẹ còn sống không bỏ đi được, đến khi ngoài 40, cha mẹ không còn và là người
Công giáo, nên ông quyết định xa lánh mặt trời, vào miền Nam để giữ đạo.
Khi lên
đường di cư vào Nam , ông với vợ và 2 con: Một gái tên là Nguyễn Thị Hưng đã có
chồng là Lê Văn Quyền, và một con trai là Nguyễn Văn Định chưa vợ.
Mới đến, ông
tá túc tại một nhà người quen ở Lái Thiêu, rồi từ từ 3 cha con vào Gò Cầy (bây
giờ là vùng từ Bình Hòa lên ngã tư Hòa Lân) cắt tranh, chặt cây làm nhà, nhà
cất ở khoảnh đất cao, cạnh (phía tây) đất thánh Búng ngày nay.
Định cư
xong, ông Bình lo sắm trâu để làm ruộng, nuôi vài con ngựa để làm phương tiện
di chuyển, nhứt là để đi làm thuốc ở những nơi xa.
Sau một thời
gian, ông ra riêng cho người con gái và con rể ở vùng Cầu Ngang và cưới vợ cho
con trai, người họ Võ ở Lái Thiêu.
Tạo được sự
nghiệp, ông Bình thường cho con rể và con trai về quê miền Trung để quyến rủ bà
con thân thuộc cùng vào Nam lập nghiệp, một số người ở vùng quanh thấy có cuộc
qui dân lập ấp cũng đến. Thấy có số đông người đến ở, ông Bình đi thương lượng
với các xã xung quanh để phân chia ranh giới và xin đăng ký với Triều đình để
lập một xã mới.
Xã mới lấy tên là HƯNG ĐỊNH, xã thứ 13
trong tổng Bình Chánh.
Ông
lấy tên 2 đứa con mà đặt cho xã, người thời đó có thói quen hay cữ nói đến tên
người lớn thì lấy làm lạ lắm, ông biết được nên mới giải thích, Hưng và
Định là con của tôi, nay xã này phần lớn do bàn tay tôi tạo nên, nên nó cũng là
con của tôi, con cháu sau này khi nói đến, chúng có dịp nhớ đến ông bà tổ tiên.
Xã được phân
làm 3 ấp:
·
Ấp HƯNG PHƯỚC (ở giữa)
·
Ấp HƯNG LỘC
(ở lò chén Chùm sao)
·
Ấp HƯNG
THỌ
(ở Cầu Ngang)
Xã được khai
sanh với:
·
Ông Lê Văn Quyền làm Hương Cả
·
Ông Nguyễn Văn Định làm Xã Trưởng
Ông Bình có
đặt 2 câu liễng đối treo ở Công Sở:
XUÂN CÚC THU ĐÀO HƯNG ĐỊA VINH HUÊ VÔ
HẠN LẠC
NGỌC ĐƯỜNG KIM MÃ ĐỊNH GIA NHỰT LỆ HỮU
THỜI LAI
(Liễng đối này chỉ tồn tại tới năm 1945)
Cơ sở hành
chánh xã thường được gọi là Nhà Việc, Trụ sở chánh gọi là Nhà Hội, được xây cất
ở ấp Hưng Thọ, đối diện Cầu Ngang. Nhà Việc ấp Hưng Phước ở tại ngã ba, góc
đường nhà thờ quẹo vô lò chén Cây Sao, còn nhà Việc ấp Hưng Lộc ở gần cuối
đường lò chén.
-----------------------------------------
HỌ BÚNG
Nhóm người
Công giáo đến định cư tại vùng cái Búng, đã khai sinh ra họ đạo Búng.
Ông Trùm
đầu tiên là ông trùm Bình, nối tiếp con (Định), cháu (Tín), chắt (Kính), vừa là
Trùm xứ đạo vừa là Hương Cả trong làng..
Nhà
thờ đầu tiên được cất gần nhà ông Trùm (Bình) trên đất Đất Thánh ngày nay, để
tiện cho ông Trùm gìn giữ và đón rước các Cha, Nhà thờ này là nhà tranh cột
chôn, chỉ tồn tại được một cỏi tranh.
Sau đó, nhà
thờ được dời ra khu đất (nhà chung) ở dốc Sỏi, khi đó vùng này thuộc xã Hưng
Định, nhưng thời kỳ bắt đạo bỏ phế bị An Thạnh lấn qua. Nhà thờ này bị bỏ hoang
khá lâu trong thời kỳ cấm đạo.
Sau thời kỳ
bắt đạo này, là thời kỳ Pháp đô hộ. Nhà thờ này được dời ra cất ở đất ông
Chư (con thứ hai của ông Tín) gần cầu Cây Trâm. Vì là đất bưng ẩm thấp lầy lội,
nên sau ít năm có ông lái bán cá (không biết tên) ở cầu Bà Hai Mọi dưng
một phần đất, bèn dời Nhà Thờ về đó (khu đất Chùa Bà ngày nay).
Cạnh nhà thờ
này có trường học, và khởi sự từ đây có Cha Sở là Cha Antôn Võ. Nhà thờ này tồn
tại cũng không lâu, vì trong một đêm kia mưa to gió lớn thổi sập tất cả, Cha Sở
bị kẹt bên trong nhưng không sao, chờ đến sáng bổn đạo đến phá giở mang Cha ra.
Thấy nơi đây
gần đường sá, chợ búa tấp nập, không trang nghiêm nên trong họ đồng ý dời về
nơi Nhà Thờ hiện nay. Nhà thờ này được xây cất xong năm 1888, trần Nhà
Thờ và tháp chuông được xây cất lên năm 1952.
Họ đạo Búng
có được nhà cha sở xứng đáng là do cha Sở Martin Nghi (1901 – 1916) xây cất,
không bằng tiền của xứ đạo, mà là tiền của gia đình Cha (từ bên Pháp).
-----------------------------------------
ĐỨC TRỌNG QUỈ THẦN KINH
Trong thời
gian ông Định làm xã, dân chúng trong vùng đều biết cái tin đồn là: Cái miễu bà
ở Phú Cường là rất linh thiêng, ai qua đó đều phải khấn vái, nếu cưỡi ngựa cũng
phải xuống, ai không vái sẽ bị bà phạt trào máu chết, nhưng ông Xã Định đi ngựa
ngang qua vẩn không xuống và cũng không vái van chi cả, người ta biết nhiều, vì
một khi kia ông đi nộp thuế về, cùng đi có mấy ông xã mấy làng lân cận, khi qua
đó họ đều xuống vái, song ông vẩn đi qua khỏi và ngừng lại chờ, khi các ông kia
vái xong rồi lại hỏi sao ông không vái, bà phạt làm sao? Ông trả lời: “Nơi đây
tôi qua lại từ lâu, đi chữa bịnh mấy thân chủ ở vùng Chánh Thiện, nào tôi có
vái van chi đâu, mà bà có quở phạt chi”. Rồi từ đó có câu truyền tụng “Đức
trọng quĩ thần kinh”
-----------------------------------------
CHA QUÍ
(Thánh Phêrô Đoàn Công Quí)
Là con cái
trong Họ, Cha Quí sau khi chịu chức linh mục, về quê nhà vinh qui, nói là vinh
qui, chớ thật sự chỉ là một Thánh Lễ được tổ chức lén lút ở Gò Cầy.
Sau đó, cha
Quí còn nén lại một thời gian ở nhà ông trùm Tín.
Thời kỳ này
là thời kỳ bắt đạo gắt gao, bắt Đạo trưởng, bắt luôn cả người oa trữ. Tin có
giáo sĩ về trú ở nhà ông Trùm Tín và cũng là ông Cả trong làng đã tới tai chánh
quyền. Ông Huyện ở Lái thiêu và Ông Tổng bàn tính đem quân đi bắt.
Hai ông bàn
tính với nhau thể nào, đều lọt vào tai của tên thư lại. Sau giờ làm việc, tên
thư lại về đến nhà thì gặp bà mẹ đang rên la đau bụng, trong nhà đang lo đâm sả
bồ bồ cho uống cấp cứu, tên thư lại liền lấy ngựa chạy ngay lên nhà ông Tín mà
anh rất có cảm tình, và vì anh là thân chủ thường xuyên của ông Thầy Đức Trọng
(tên hiệu thầy thuốc được lưu truyền từ thời ông Bình).
Sau khi nói
căn bịnh, ông thầy đang hốt thuốc thì anh thư lại cũng rỉ vào tai ông thầy mấy
câu văn tắt, chỉ thấy ông thầy gật đầu và đáp nhẹ : “Cám ơn, anh đừng lo, tôi
đã chuẩn bị…..”
Chiều hôm
đó, một chiếc ghe xuôi đường rạch Cây Trâm ra phía vàm Búng, dọc bờ rạch có
người quen hỏi, anh Hai đi gát cuốc ở vùng nào?Thị được trả lời: “Anh này quen
ở Bà Lụa rủ lên đó gát” (người trả lời là ông Chư và người đồng hành là Cha
Quí).
Trời vừa
chập tối, ông Tổng hướng dẫn một tốp lính trên vài mươi, bao vây quanh rào một
nữa, còn phân nữa vào nhà, ông cho chủ nhà (ông Tín) biết, ở Huyện có người báo
cáo nhà ông có chứa đạo trưởng nên sai tôi đi bắt, ông Trùm vui vẻ sẵn sàng trả
lời: “Ngài cứ việc thi hành theo lịnh”.
Sau khi lục
soát khắp nơi, kết quả không có người, vật gì khả dĩ để dùng làm tang, để chữa
thẹn ông lớn tiếng mắng: “Quân nào khốn khiếp cho tin thất thiệt làm mất công,
mắng rồi kéo về với vẻ mặt hằn hộc”.
-----------------------------------------
TỴ NẠN Ở BỐ MUA
Sau
biến cố này, cảm thấy nguy, ông Tín bàn giao nhà cửa đất điền cho con cả là ông
Chư và các em trông nom, còn nghề thấy thuốc thì giao cho học trò là ông Huy
thay thế.
Ông
Trùm cùng với cháu là Hay và hai con là Kính và cô Kiếm đi lên Bố Mua tỵ nạn, ở
xóm Bàu Ao.
Lên Bố Mua
ở, hàng xóm láng giềng rất mộ mến, đặc biệt là ông Trùm sở tại, ông là người
giàu có trong vùng nhưng hiếm con, ông chỉ có một trai, sau khi cưới vợ và sinh
được một cháu trai thì anh này lại bị cảm thương hàn nặng quá, bệnh và chết chỉ
trong vài hôm.
Bà Trùm vì
quá buồn con, sinh bịnh rồi cũng chết theo, ông Trùm thấy mình đã cao niên mà
cháu thì còn nhỏ, con dâu có thủ tiết thờ chồng được không gia đình
thật neo đơn.
Ông
mới nảy ra ý kiến là xin cậu Hay cháu ông Tín làm con nuôi để coi sóc và thừa
kế sự nghiệp của ông, với điều kiện là phải thừa kế luôn cô dâu góa của ông
nữa.
Thật thực
tế, nhưng trớ trêu, ông Trùm Tín và cậu Hay hẹn một thời gian để suy nghĩ,
nhưng trong hàng xóm láng giềng bao nhiêu là ông mai không ăn đầu heo cho rằng
hợp lý cứ đốc vô. Sau cùng ông Trùm và cậu Hay đồng ý, và đám cưới được cử
hành.
Người con
ghẻ của ông tên là Phải, ông Phải có con tên là Khuê, cả hai đều làm đến Hương
Cả ở xã Phước Vỉnh.
Cậu Hay có vợ,
Cô Kiếm cũng lấy chồng,
Ông Tín đến
Bố Mua, khi rảnh rang ông dạy giáo lý và chữ Nho. Trong số các thanh niên theo
học chữ nho có cậu Ngởi, con ông biện ở xóm Vàm Giá là siêng năng và học giỏi,
cậu lại để ý con gái của ông thầy là cô Kiếm, cậy mai đến nói, ông Tín thấy con
mình đã khôn lớn và cậu Ngởi cũng là con nhà đạo đức tử tế nên bằng lòng gả.
-----------------------------------------
BÀ CON XA
Sau khi gả cô
Kiếm xong thì cũng hết thời kỳ khó khăn (giặc Tây đã chiếm Bến Nghé). Cha con
ông Tín trở về quê. Khi đi lên 4 người, nay về chỉ còn hai, vậy là còn để lại
một số bà con thân thuộc.
Đến thời
tôi, (Nguyễn Thới Linh), còn là thanh niên thích chạy xe máy (như môtô ngày
nay), có lần lên tới Bố Mua, vào một nhà nọ, thấy trong nhà có một cô gái mà
sắc đẹp khá đặc biệt, nên trong lòng cũng….., nhưng sau được biết cô đó là cô
của tôi, cô là con gái út của bà Kiếm.
-----------------------------------------
SẮC THẦN
Mỗi làng xã
đều được vua ban cho một ông thần để phù hộ dân chúng và để được dân chúng kính
bái, tượng trưng bằng cái SẮC THẦN (một ông quan nào đó có công với vua với
nước, được vua phong làm thần).
Làng Hưng
Định được thành lập thì nhà vua cũng ban cho một sắc thần. Sắc thần được
gởi đến phủ, thì ông cả có phận sự và danh dự đến rước sắc thần về xã.
Nhưng khi
Sắc Thần của xã Hưng Định về đến phủ ,thì khi đó xã Hưng Định vắng mặt ông cả
(ông Tín cả đương niên còn đang lánh nạn ở Bố Mua ), nên ông Hương Sư Êm và ông
Hương Thân (không biết tên), thân sanh ông Hương Lánh, dọn ghe, nghi trang lên
Phủ lãnh Sắc về.
Vì
chưa có đình thần, nên sắc được để tại nhà ông Hương Thân (ven rạch Cầu Ngang,
bên kia cầu Bà Hai Mọi), và mỗi năm đều có lễ cúng vái đầy đủ, mãi đến năm 1926
mới cất đình trong lò chén cây sao.
(như vậy thì
vô phúc cho ông Thần này quá, ông được kính bái ở đình khoảng được 20 năm, từ
năm 1945 đến nay ông ở đâu?)
-----------------------------------------
THỜI PHÁP THUỘC
Phủ PHƯỚC
LONG được đổi tên là:
Tỉnh THỦ DẦU
MỘT
Huyện Bình
An được đổi là:
Huyện Lái
Thiêu
Tổ chức hành chánh xã được gọi là Bàn Hội Tề với 12 vị: o
Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương
Quản, Hương Bộ.
o
Hương Thân, Xã Trưởng và Hương Hào, ba vị này hợp thành một Ban gọi là Ban THỊ
NIÊN, tức văn phòng thường trực của xã, sau cùng là Chánh Lục Bộ.
(Còn tiếp
tục trong thời Pháp thuộc và chấm dứt vào năm 1945)
-----------------------------------------
ĐƯỜNG LỘ
Khi xưa di
chuyển tấp nập ở đường thủy, còn đường bộ chỉ là những đường mòn, đường đất nhỏ
hẹp cho xe bò và xe trâu.
Thời Pháp
thuộc thì lần lần mở mang đường sá. Năm 1880 phóng con đường từ Lái Thiêu lên
Thủ Dầu Một ngang qua Cây Me, Bình Nhâm, Hưng Định, An Thạnh, nhưng không biết
tại sao khi tới đường lò rèn (An Thạnh ) thì ngưng luôn.
Đường này
được phóng thật ngay, không cong queo như đường mòn, khi phóng có gặp nhà thì
bồi thường cho dời đi. Trường hợp này đúng ngay vào nhà của ông bà ngoại tôi
(Linh), nằm ngay tầm nhắm, khi Trắc địa viên mang đồ nhắm đến trước nhà, họ
phải phá một lỗ vách, để ống nhắm thấy được cây trụ phía bên kia, khi phá vách
thì đường nhắm đó xuyên đúng ngay căn buồng mà bà ngoại tôi đang nằm chổ vừa
sinh người cậu thứ bảy (cha của bà út Nhỉ) được 10 ngày. Nhà này nằm khoảng
giữa nhà chị em Son, Tím và nhà Bảy Khả. Nhà này được dời đi với tiền bồi
thường là 100 quan tiền kẽm.
Đường này bị
phế bỏ luôn đến năm 1966, có tốp công binh Đại Hàn tu bổ lại.
Bỏ con đường
này, nhà nước trở về con đường mòn Từ Lái Thiêu qua Cầu Mới lên Cầu Ngang đi
ven rạch Búng qua An Thạnh lên Thủ Dầu Một, đường này được trải đá và hoàn
thành vào năm 1895 với tên là quốc lộ 13.
Con
đường từ Bến bụi vô lò chén Cây sao, được mở vào năm 1910 – 1911.
Đường rầy xe
lửa Sài Gòn - Lộc Ninh ngang qua Hưng Định, xây cất từ năm 1925, chỉ sử dụng
được đến năm 1945, sau đó thường bị phá hoại và dẹp bỏ luôn.
-----------------------------------------
XE CỘ
Người Pháp
đem đến hai loại xe kéo bằng ngựa, một gọi là xe kiến dùng để đưa rước hành
khách, loại thứ hai có vẻ sang trọng hơn, thời đó trong xã chỉ có ông chủ Tại
(ông nội Tư Phải) là có một chiếc xe song mã mà thôi.
Hai loại xe
này không được phổ biến, vì có sự xuất hiện ở trong xứ loại xe thổ mộ hay xe
hộp quẹt (vào lối 1910). Ngày nay, mặc dầu nhiều nơi không nhìn thấy bóng dáng
một chiếc xe thổ mộ, nhưng đặc biệt ở xã Hưng Định con đường từ Chợ Búng vô là
chén Cây Sao vẩn còn xe Thổ Mộ chạy đều đều. Xe máy đạp đến xã Hưng Định vào
lối năm 1905, cha sở Martin Nghi có một chiếc chạy bằng sên và vỏ bơm, còn loại
xe chạy bằng trái khế và vỏ đặc có hai người có, là ông Bảy Hoành (đầu bếp cha
sở) và Ba Thượng (cha của ba Phẩm, tư Trực, năm Trung).
Năm năm sau,
1910, mới có 3 người sắm được xe chạy bằng sên và vỏ bơm là ông Xã Qườn (Ông
ngoại vợ của tư Đắt), Xã Thiên (cha của dì Khi) và ông Câu Đồ (ông nội của cha
Binh).
Lối 5 năm
sau (1915) thì xe máy lần lần lan-tràn
-----------------------------------------
THEO LUẬT
Thiếu 3 tháng, không được
Dư 3 tháng cũng không được.
Là trẻ con
nhà Công giáo, từ có tuổi khôn đến 12 tuổi trọn, phải vào học ở trường Nhà Thờ
cho đến Rước lễ Bao đồng rồi mới được ra trường.
Ở trường
học, tôi (Linh) vừa học giỏi vừa được thầy giáo cưng, thầy giáo khi đó là chú
Tám của tôi (Thầy Tám Tể, cha ông tư Nhu). Khi đó Rước Lễ vỡ lòng và Rước lễ
Bao đồng một lượt, một năm tổ chức một lần vào cuối niên học. Kỳ Bao Đồng năm
1910, theo niên học và thuộc giáo lý, thì tôi được rước lễ và ra trường năm đó,
nhưng khi Cha sở lục xem tuổi theo sổ rửa tội, thì tôi còn thiếu 3 tháng nữa
mới đủ 12 tuổi trọn, Cha không cho và biểu phải để năm sau Rước lễ và ra
trường.
Năm 1911,
sau Rước lễ Bao đồng xong, tôi xách khai sanh ra trường Nhà nước (ở Chợ Búng)
xin vào học, ông Hiệu trưởng xem qua khai sanh thì lắc đầu, không được vì đã 12
tuổi quá 3 tháng.
Luật khắt
khe như thế, thì đành để cuộc đời dốt nát hay sao?
Ông Nội tôi
(ông Kính) nghe biết, ông bảo:”Thôi, con đi học tây không được thì thôi, con đi
học tàu đi, nhà mình 4,5 đời học Nho, con nên kế tiếp sự nghiệp của cha ông, có
học còn hơn không học gì cả”.
Sanh Quới
(Chép từ
gia phả ông Bình của Linh Mục Longinô Nguyễn Thới Mậu)